QĐND Online –“Tôi yêu mái tóc đen và dài, yêu cái giọng nói nhẹ nhàng, ngọt ngào, dễ thương của bà ấy”. Đó là những tâm sự của bác Trần Giang San về mối tình đặc biệt của mình, khi ông còn là chiến sỹ lái xe tại Ngã ba Đồng Lộc.
Hai vợ chồng bác Trần Giang San, Trần Thị Thanh là khách mời trong buổi giao lưu nghệ thuật “Lời ru đồng đội” được tổ chức tại Tượng đài Chiến thắng Khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc. Chúng tôi thật sự bị cuốn hút bởi mối tình đẹp giữa người lái xe và cô chiến sĩ giao liên trong những năm chiến tranh ác liệt tại chiến trường Ngã ba Đồng Lộc, nơi còn được gọi là “tọa độ chết”.
 |
|
Vợ chồng cựu chiến binh Trần Giang San và Trần Thị Thanh
|
Tình yêu nảy sinh từ “tọa độ chết”
Sinh ra trên mảnh đất Vĩnh Phú, năm 1966 nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, Nguyễn Giang San đã xung phong nhập ngũ và trở thành chiến sĩ lái xe ở Tiểu đoàn 736, Binh trạm 25, Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần. Công việc của bác San là hàng ngày đưa và đón bộ đội ra vào tại Ngã ba Đồng Lộc.
Còn bác Trần Thị Thanh năm ấy là chiến sĩ giao liên ở T12, Tổng cục Hậu cần, nhiệm vụ chính là theo các đoàn xe của các anh để sắp xếp chỗ ăn, chỗ ở cho bộ đội.
Qua những chuyến xe như thế, qua những câu hò thân thương và da diết của người con gái Hà Tĩnh, bác San đã bị mê hoặc bởi các phẩm chất hồn nhiên, trong sáng và tràn đầy nhiệt huyết. “Lúc đấy tôi không dám nói ra, mỗi lần gặp bà ấy tôi chỉ nói vui: “O giao liên ơi, có làm vợ lái xe không?”, bác San bồi hồi nhớ lại.
Tiếp lời kể của bác San, bác Thanh tươi cười nói: “ Đến giờ tôi vẫn nhớ, khi tôi nhận lá thư đầu tiên của ông ấy, chồng tôi chỉ viết là: “Quê anh mãi Vĩnh Phú, liệu em có theo anh về đấy hay không?”. Tôi chỉ trả lời rằng: “Để em suy nghĩ đã”.
Cùng chung một chiến trường, hai người đồng chí, hai người đồng đội Trần Giang San, Trần Thị Thanh có rất nhiều kỉ niệm hào hùng bên cạnh tình yêu đẹp của mình. Kể lại những năm tháng ác liệt trên chiến trường, bác Thanh rơm rớm nước mắt khi nói về những ngày tháng “ác liệt hào hùng” mà hai bác đã cùng nhau trải qua.
Năm 1968, khi o Thanh đang còn làm hộ lý ở Binh trạm 10, nhiệm vụ theo xe chở thương binh để giúp đỡ, chữa trị vết thương. Do trời mưa, 18 xe chở thương binh bị dồn lại. Bị máy bay địch phát hiện, chúng thả bom, tất cả số thương binh trên xe và một chiến sĩ quân y đã hi sinh. Sự hi sinh của đồng đội như tiếp thêm ý chí, nghị lực cho họ vươn lên vượt qua bom đạn để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đám cưới “đặc biệt”
Cuối năm 1971, binh trạm đồng ý, hai người được thông báo trước đó 7 ngày để có thời gian chuẩn bị cho lễ cưới. Một đám cưới “đặc biệt” được tổ chức ngay ở đơn vị ngay giữa trọng điểm đánh phá của địch. “Được gọi đám cưới “đặc biệt” bởi không có nhà trai, chỉ có bố vợ tôi và các anh em trong binh trạm”. “Đám cưới chúng tôi tuy chỉ có ít bánh, kẹo, thuốc lá và chè xanh nhưng tràn đầy niềm vui với những lời ca tiếng hát làm quà tặng”, bác San nhớ lại.
Một chiếc chăn, trên gắn đôi chim bồ câu và hai câu khẩu hiệu hành động: “Vui duyên mới không quyên nhiệm vụ và Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ” được căng lên. Sau lễ cưới, bác San trở về với tiểu đội lái xe của mình, bác Thanh lại về với công việc giao liên. Phải tới 3 tháng sau, hai bác mới được gặp nhau. Kết quả của tình yêu đó là 5 người con, nhưng một người đã ra đi vĩnh viễn vì nhiễm chất độc da cam.
Nghe hai bác kể về câu chuyện tình yêu của mình và nhìn vẻ mặt tràn đầy niềm hạnh phúc dù đã trải qua bao nỗi đau của chiến tranh ấy chúng tôi tưởng như đây là đôi vợ chồng trẻ mới cưới với những cái nhìn âu yếm luôn dành cho nhau.
Chia tay chúng tôi, bác Thanh ngẫu hứng hát bài hát “tủ” của mình “Chiếc gậy Trường Sơn”. Bác bảo “Đây là bài hát mà tôi đã tặng bà xã nhà tôi trong ngày cưới. Cái khoảnh khắc đó thật hạnh phúc, mãi mãi tôi không thể nào quên”.
Bài, ảnh: Phúc Thắng – Trần Hoài