 |
Cán bộ, chiến sĩ vọng quan sát mắt làm nhiệm vụ. |
Nghe kể về cuộc sống của những người lính làm nhiệm vụ
"canh trời" trên đỉnh các điểm cao vô cùng gian khổ, tôi ước ao một ngày nào đó được đến với các anh. Và rồi thời cơ đã tới khi cấp trên giao nhiệm vụ tôi lên tăng cường cho Đài quan sát phòng không Hòa Bắc, thuộc Đoàn Phòng không B75.
Vườn rau ấm tình dân
Con đường dài hơn 30km đưa tôi đến chân Đài quan sát phòng không Hoà Bắc, mà anh em vẫn quen gọi là “đỉnh giăng màn” vì sương bao phủ suốt ngày, đêm. Giữa bạt ngàn núi non hùng vĩ, thấp thoáng những cành mai đã trổ sắc vàng. Khác với hình dung của tôi, đường lên đài chỉ là một dòng khe nhỏ chảy vòng quanh núi. Người chiến sĩ đón tôi nhanh tay giành lấy chiếc ba lô lép kẹp. Tôi cùng anh sau mấy lần nghỉ chân cũng lên đến đỉnh. Đài quan sát đóng ở độ cao hơn 200 mét so với mực nước biển. Gió rít ù ù. Cái lạnh thấm sâu vào da thịt. Buổi đầu làm quen, tôi dạo quanh khuôn viên của đài. Ở nơi heo hút này không biết các anh kiếm đâu về mà nhiều loại cây cảnh đến thế. Nhìn mấy chậu hoa sứ, hoa mai... tôi có cảm tưởng mùa xuân nơi đây đến sớm.
Phía sau nhà, đập vào mắt tôi là một chiếc thùng loại 300 lít đựng nước ăn và bể xi măng mới xây chờ nước mưa. Chuẩn úy Phạm Hữu Hải, Tiểu đội trưởng cho biết: "Nước sinh hoạt chúng em phải mang từ dưới núi lên". Nói xong anh chỉ cho tôi xem gần chục chiếc can nhựa loại 10 lít được xếp gọn gàng. Hải kể: “Hằng ngày cứ 5 giờ, 3 người xách can xuống núi lấy nước. Buổi chiều, đi tắm mỗi người mang theo về một đôi can nước”.
Khi mây mù phủ thành lớp mỏng trên đỉnh núi, Đài trưởng Trần Văn Khương phân công: “ Đồng chí Hải, đồng chí Thuy ở lại trực quan sát, còn tất cả thay nhau tắm giặt ”. Binh nhì Phạm Văn Chi chọn đôi can có dây buộc. Hạ sĩ Nguyễn Lương Bằng nói với tôi: “Ưu tiên em út đấy anh à. Chi mới lên đây vài tuần nên chưa quen cảnh cõng nước lên đài. Lính cũ chúng em hai tay xách hai can, hoặc một can xách, một can vác lên vai”.
Tôi mới lên hôm đầu đi lại còn chưa vững. Xuống đến chân núi, băng qua đường vào sâu khoảng 200 mét mới đến chỗ tắm. Một vòi nước được đồng bào dẫn từ khe về trong suốt, lạnh nhức xương. Tôi ngần ngại. Biết ý tôi, anh Khương bảo: “Anh đợi một chút, sẽ có nước nóng ngay". Thấy tôi vẫn chưa tin, Đài trưởng Khương cho biết: "Hằng ngày, chiến sĩ đi chợ kiêm luôn việc đun nước phục vụ bộ đội. Nước được chúng tôi đun ở nhà bố Túc. Lạnh thế này, nước suối giội vào người thế nào được".
Tắm xong, Khương ra hiệu cho tôi đi sau. Chúng tôi ghé vào một vườn rau xanh tốt. Dọc hàng rào, quả mướp treo như xếp hàng. Kéo dài ra phía đường đi, giàn bí xanh quả nhiều không kém. Anh với tay hái mấy quả mướp đong đưa trước mặt. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Hái trộm của dân à?”. Anh Khương giải thích: “Đây là đất của dân nhưng rau, quả lại do bộ đội trồng. Chuyện là vào dịp đầu năm 2006, bố Túc lên đơn vị chúc tết thấy toàn đá sỏi liền bảo: “Xuống vườn bố dành cho một khoảnh đất để tăng gia”. Từ đấy, mỗi lần đi tắm chúng tôi phân công nhau nhặt từng thanh củi, cuốc từng luống đất. Chẳng bao lâu, rau quả đã cho thu hoạch”. Tôi nhìn lên đài. Một vài chiếc can đã nhấp nhô trên đỉnh dốc. Hai anh em vội vã bước theo.
Mắt thường canh giữ bầu trời
Tiếng còi báo động vang lên. Cán bộ, chiến sĩ nhanh chóng chạy lên vọng quan sát. Đài trưởng Trần Văn Khương hai tay nâng ống nhòm. Hạ sĩ Trần Nhật Thuy cầm bút chì đỏ vạch vào chiếc bảng tiêu đồ trước mặt, tai đeo cáp, miệng đọc tọa độ mục tiêu thông báo về Sở chỉ huy. Phía trong, hai chiến sĩ quay kính ngắm quang học theo lệnh của đài trưởng.
Tôi ghé mắt nhìn vào ống kính kê chính giữa phòng. Núi non trùng điệp phút chốc được thu vào tầm mắt. Xa xa, một chiếc máy bay quá cảnh hiện rõ dần trên trục toạ độ. Tôi quay sang nói với Binh nhất Phạm Văn Chi: "Trực quan sát thích thế này chắc tới đây anh xin lên ở hẳn". Chàng trai dân tộc Mường đáp lại: "Không đơn giản đâu anh ạ. Mùa nắng, trời như rót lửa xuống hộp bê tông, mùa mưa, gió rít ù ù, nước tràn qua khe kính chảy lênh láng. Thời tiết khắc nghiệt là thế, nhưng chúng em ngồi hàng giờ mà không dám lơ là mất cảnh giác một giây, vì tính chất địa hình rất hiểm trở”.
Tôi nhìn xuống chân núi. Cây cối um tùm. Dòng khe như một lằn chỉ lúc ẩn, lúc hiện. Tiểu đội trưởng Hải nhớ lại những lần đi khắc phục sự cố đường dây. Hải tâm sự: "Sợ nhất những hôm trời mưa, tín hiệu liên lạc bị mất. Ra khỏi nhà, diện độc chiếc quần xà-lỏn, chúng em cứ thế tuột dần theo lối mòn. Nước chảy cuồn cuộn trong lòng khe, mang theo áo mưa chỉ tổ vướng chân. Bắt đầu từ hộp cáp, lần ngược trở lại. Mặc cho mưa táp vào mặt, gai cào rách da, phải tìm cho được chỗ dây đứt. Có hôm 22 giờ báo cáo tình hình phát hiện liên lạc bị gián đoạn, ba người loay hoay mò mẫm đến gần sáng mới khắc phục xong".
Như để minh chứng cho những nỗ lực của cán bộ, chiến sĩ trên Đài quan sát, chỉ tay lên dãy bằng khen, giấy khen được treo trang trọng trên tường, Đài trưởng Khương cho biết: “Từ khi thành lập đến nay, chưa bao giờ Đài quan sát bỏ sót, lọt mục tiêu. Vì thế năm nào đơn vị cũng được cấp trên khen thưởng. Mới đây nhất, đội tuyển của Đài dự hội thao Quan sát phòng không bằng kính ngắm quang học do Đoàn Phòng không B75 tổ chức đã giành giải nhất. Hạ sĩ Trần Nhật Thuy còn đoạt thêm giải nhất cá nhân”.
Hết thời gian công tác, tôi tạm biệt “những người lính canh trời” và không thể nào quên câu nói của má Bé, nhà ở dưới chân núi: “Mấy đứa trên đó tốt lắm. Chẳng có việc gì của má mà chúng không giúp. Má tiếc mình già rồi không lên thăm tụi thằng Khương, thằng Cả được”.
Trên đường xuống núi, Hạ sĩ Nguyễn Lương Bằng cắt tặng tôi nhánh mai vàng như nhắc nhở mùa xuân đã về trên điểm cao.
Phóng sự của Nguyễn Sỹ Long