 |
| Chị em Công ty Cổ phần T và B đang làm nguyên liệu trồng nấm. |
Trước mặt tôi là những phụ nữ đã bước qua cái tuổi “ngũ tuần”. Cuộc sống lam lũ hiển hiện trên gương mặt bén nắng, thêu dệt vết thời gian. Thủa ấy, họ là những cô gái trong Đoàn 559 căng đầy sức sống... May mắn hơn nhiều đồng đội là được sống và trở về. Hơn 30 năm qua đi, giờ đây mỗi người mỗi cảnh. Có người kinh tế khá giả, vui vầy hạnh phúc bên chồng, con. Có người gian truân vất vả mưu sinh. Lại có người vẫn chỉ là một “bóng đời” đơn lẻ, mầm bệnh thời chiến đeo đẳng, gặm nhấm cơ thể... Nhưng họ vẫn sống và làm những việc có ích.
Buồn, vui kỷ niệm Trường Sơn
Tôi quen chị Phạm Thị Cúc một cách tình cờ. Bữa ấy, tại một cuộc hội thảo ở Hà Nội, chị thẳng thắn phát biểu trước nhiều vị chức sắc rằng: Tại sao các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại khó vay vốn ngân hàng đến thế. Từ ngày thành lập đến nay, công ty của chị chưa vay nổi “một cắc” tiền vốn từ ngân hàng!
Cái giọng “tỉnh lẻ” nằng nặng làm tôi chú ý. Nom chị hiền lành, thuần khiết như một nông dân hơn là một nữ doanh nhân! Tôi quyết định tìm đến doanh nghiệp mà chị Phạm Thị Cúc đang làm giám đốc. Đó là Công ty cổ phần T và B, có trụ sở tại xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh (Ninh Bình).
Điều bất ngờ đầu tiên là doanh nghiệp có cái tên… khá trừu tượng là “T và B” gồm toàn những nữ thương binh, bệnh binh, cựu quân nhân, thanh niên xung phong từng ở Trường Sơn. Bản thân giám đốc Phạm Thị Cúc cũng là một thương binh chống Mỹ hạng 4/4. Sản phẩm của doanh nghiệp chủ yếu là các loại nấm. Trong gian phòng vài chục mét vuông được dùng làm nơi tiếp khách, la liệt những hòm, hộp, chai, lọ đựng đầy nông sản chuẩn bị mang đi tiêu thụ.
Gặp tôi, chị Cúc say sưa kể chuyện chiến trường:
- Tháng 10-1973, cùng với hàng trăm chị em ở huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, tôi làm đơn xung phong vào chiến trường, được điều về Sư đoàn 473 thuộc Bộ tư lệnh Đoàn 559. Năm 1974, trong khi đang thu dọn chiến trường ở sân bay Tà Cơn (Quảng Trị), tôi bị vướng mìn, nằm bất tỉnh 3 ngày liền. Có bữa, chuột chui vào cắn rách một mí mắt. Sau 4 tháng điều trị, lành vết thương, tôi xin trở lại chiến trường...
Rồi chị cẩn thận lấy từ chiếc ba lô đã ố vàng cho tôi xem những kỷ vật thời chiến. Đó là mảnh dù ngụy trang, chiếc võng, vỏ đạn, lược chải tóc, ca đựng nước, bát ăn cơm, đĩa đựng thức ăn, hộp dầu… tất cả được làm bằng vỏ đạn hoặc xác máy bay địch. Tay chị bỗng run run khi lôi ra một lọn tóc đen nhánh, dài tới nửa mét, mắt rưng rưng:
- Đây là tóc của chị Dung, người cùng đơn vị mà tôi giữ được. Ngày mới vào chiến trường, mỗi lần chị gội đầu, bọn con gái chúng tôi cứ xuýt xoa mong ước có mái tóc dày và đẹp như vậy. Thế nhưng, chỉ mấy tháng lăn lộn trên các cung đường, trọng điểm, bị sốt rét hoành hành, mái tóc chị Dung cứ rụng dần. Mỗi lần chải tóc chị ấy lại ngất đi… Không riêng gì chị Dung, lũ con gái chúng tôi đang trắng trẻo tươi giòn là thế, sau một thời gian thì da chuyển màu tai tái, tóc cứ rụng dần, có người trọc lốc như nhà sư. Do cuộc sống kham khổ, sinh hoạt thất thường, hầu hết chị em đều mất kinh…
Lọn tóc mà chị Cúc lưu giữ của đồng đội giờ đã quăn queo, bện vào nhau như một dây thừng. Nhìn kỹ, nó vẫn còn nguyên chân tóc và lốm đốm cả… trứng chấy!
- Nghĩ cũng tội cho chị Dung - Chị Cúc ngậm ngùi kể tiếp - Sau khi giải phóng miền Nam, về nhà lấy chồng, cũng là một đồng đội ngày ở Trường Sơn, sinh được một đứa con gái. Nhưng do bị ảnh hưởng chất độc da cam từ bố mẹ, đến năm 23 tuổi thì cháu mất…
“Lính nữ” Trường Sơn và thanh niên xung phong ngày ấy chủ yếu là làm cầu, đường. Hoàn cảnh thời chiến, thiếu các phương tiện bảo hộ lao động, công cụ làm việc chủ yếu là xà-beng, choòng, búa chim, cuốc, xẻng. Vì thế, bàn tay con gái thường rớm máu, rồi xạm lại, chai đi, sờ vào thấy nham nhám… Cùng trò chuyện với tôi hôm ấy còn có chị Phạm Thị Thái và chị Đinh Thị Nhạc. Chị Thái là lính công binh, nhập ngũ tháng 8-1973, ở Sư đoàn 472 (cũng thuộc Đoàn 559). Chị nổi tiếng với kỷ lục một ngày “giật” 23 quả bộc phá để lấy đá làm đường. Chị cũng đã cùng với một đồng đội khác đập được 4,5 mét khối đá trong ngày. Còn chị Nhạc, tuy nhỏ người nhưng cũng rất gan dạ, dẻo dai. Máy bay địch vừa đánh phá trọng điểm đã dũng cảm lao ra san lấp hố bom. Hoàn cảnh chị Nhạc hiện giờ rất éo le, đã 56 tuổi rồi mà chưa được làm vợ, làm mẹ... Hằng ngày, chị vẫn phải lăn lộn, bươn chải để nuôi người cha già yếu! Những năm trước, do di chứng chiến tranh, trên cổ chị bỗng xuất hiện một u bướu rất to. Chị mặc cảm, tủi phận, suốt ngày cứ lầm lũi một mình, chẳng dám đi đâu, trò chuyện với ai.
Hơn 30 năm, chiến tranh vẫn còn hiện hữu trên thân thể người phụ nữ này!
Thương hiệu nấm “T và B”!
Sự ra đời và hoạt động của Công ty Cổ phần T và B cũng nhiều nỗi gian truân. Cách đây đúng 10 năm, nhằm tạo mối liên lạc thường xuyên giữa những người từng gắn bó ở Trường Sơn, chị Phạm Thị Cúc và một số chị em đã xin phép UBND tỉnh Ninh Bình thành lập Ban liên lạc nữ CCB Trường Sơn huyện Yên Khánh, gồm 111 chị em. Lần đầu tiên gặp lại, họ ôm nhau khóc. Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng có một nỗi niềm chung là đều vất vả và nghèo khổ như nhau. Có chị đã sinh 3 đứa con nhưng đều bị nhiễm chất độc da cam. Có chị nhỡ thì, đành ở vậy một mình. Nhiều chị không lo nổi 30.000 đồng để góp vào quỹ, đến bữa cơm liên hoan phải lén ra về, không dám ở lại ăn vì ngại... Chị Cúc thương các bạn, nghĩ ra cách cùng tổ chức đi làm thuê để gây quỹ. Gắng gượng mãi cũng chỉ kiếm được 1,3 triệu đồng. Biết chuyện, đồng chí Bí thư Huyện ủy huyện Yên Khánh lúc đó khuyên các chị nên mở một cơ sở trồng nấm, vì dễ làm, cần ít vốn. Huyện đã bố trí hẳn một xe ca đưa các chị đi tham quan mô hình ở Hưng Yên và Thái Bình. Trở về, các chị quyết định thành lập tổ hợp trồng nấm mang tên “Hợp tác xã 27-7”. Chị em rủ nhau lên Trung tâm Công nghệ sinh học thực vật ở Hà Nội để mua giống nấm và học thêm cách trồng. Được Hội CCB xã Khánh Hồng cho mượn hơn 10ha đất bên bờ sông, các chị cắt cỏ, chặt cây, dựng lều, làm trại như thời ở Trường Sơn. Chẳng bao lâu, những ngôi nhà rạ mọc lên. Trụ sở làm việc cũng là mái rạ. Mới đầu, cũng không ít lời gièm pha: “Chắc mấy bà ốm yếu này thành lập hợp tác xã chỉ để kiếm tiền… nhân đạo”. Mặc kệ! Các chị động viên nhau gắng làm. Lại có người ghen ghét, cho phóng hỏa thiêu trụi mấy chục tấn rơm nguyên liệu mà hợp tác xã thu mua đuợc. Chẳng biết kêu ai, chị em ôm nhau khóc.
Chị Đinh Thị Nhạc nhớ lại:
- Có một chuyện mà chúng tôi không bao giờ quên. Đúng vào ngày 28 Tết năm 2003, những ngôi nhà mái rơm dùng để trồng nấm bị gió giật đổ. Hơn 9.000 bịch nấm sò mà chị em bỏ công sức ươm trồng, nâng niu bỗng chốc trở thành phế liệu. Mọi người đều nghèo, dành dụm, gom góp, vay mượn được vài chục triệu đồng làm vốn sản xuất, chốc lát trở thành trắng tay.
Năm ấy trời rét lắm. Ngoài bãi sông Khánh Hồng hun hút gió thổi. Giọt nước mắt nóng lăn trên gò má lạnh của những người đàn bà khốn khổ. Tưởng sau sự cố ấy, hợp tác xã 27-7 sẽ tan rã. Nhưng không, sau những phút tức tưởi, buồn lòng, chị em động viên nhau gỡ từng bịch nấm, dọn đống phế tích, dựng lại mái lán, rồi lại huy động, vay mượn, gom góp vốn để “dựng lại cơ đồ”...
Sự kiện hơn trăm nữ cựu chiến binh Trường Sơn thành lập cơ sở trồng nấm cứ từng ngày lan xa. Năm 2004, ông Đinh Văn Hùng, lúc ấy là Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình (hiện là Bí thư tỉnh ủy - P.V) đã “vào vai” một khách mua hàng, tìm về tận cơ sở của 111 nữ cựu chiến binh để tìm hiểu. Sau khi tận mắt chứng kiến cuộc sống và nghị lực của các chị, ông đã giúp đỡ chị Đinh Thị Nhạc 5 triệu đồng để mổ khối u bướu ở cổ. Khi về tỉnh, ông còn yêu cầu các nhân viên trong cơ quan dành hẳn một ngày lương (được hơn 30 triệu đồng) ủng hộ các chị. Hơn thế, vị lãnh đạo tỉnh cũng yêu cầu chính quyền địa phương tạo điều kiện để chị em thuê hơn 4.200m2 đất tại xã Khánh Cư, trong thời gian 50 năm, để làm trụ sở và nhà xưởng sản xuất nấm.
Ngày lại ngày, thương hiệu nấm của các nữ chiến sĩ Trường Sơn được nhiều khách hàng biết tới. Nhiều siêu thị, khách sạn, nhà hàng tại Hà Nội đã tin dùng sản phẩm. Năm 2006, chị em bàn nhau “nâng cấp” hợp tác xã thành Công ty cổ phần T và B (hai chữ viết tắt có nghĩa là thương binh và bệnh binh). 16 chị em có điều kiện hơn cùng góp vốn được 300 triệu đồng, gọi là cổ đông. Chị Phạm Thị Cúc được bầu làm Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Giám đốc công ty. Chị Phạm Thị Thái và Đinh Thị Nhạc là thành viên hội đồng quản trị.
Sau khi biết việc làm của các chị, Giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Phó chủ tịch các ngành sinh vật Việt Nam đã về tham quan và đỡ đầu về kỹ thuật cho Công ty. Ông đã giúp các chị không chỉ trồng nấm mà còn trồng thêm nhiều loại cây nông nghiệp khác như ngô ngọt, đu đủ Đài Loan, cà chua nhót, khoai lang Nhật Bản… Công ty hiện đang giải quyết việc làm cho khoảng 30 lao động là con em thương binh, bệnh binh hoặc những người bị nhiễm chất độc da cam. Đồng thời, nhận bao tiêu sản phẩm cho hơn 100 nông hộ, trong đó chủ yếu là những đồng đội thời chiến trường. Một tin vui bất ngờ, năm 2008 vừa qua, Công ty Cổ phần T và B đã được nhận giải thưởng vàng “Doanh nghiệp nổi tiếng thời mở cửa hội nhập” (trong chương trình người lính với hội nhập lần thứ nhất) do Bộ Quốc phòng, Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức. Chị Phạm Thị Cúc còn được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng bưu ảnh và lời chúc mừng.
Chị Thái phấn khởi nói:
- Hiện chị em chúng tôi đã sản xuất được 7 loại nấm. Năm ngoái, công ty đã sản xuất được 60.000kg nấm linh chi, 50.000kg nấm sò, 25.000kg nấm mỡ, 6.000kg nấm đầu khỉ… cung ứng cho các nhà hàng, siêu thị ở Hà Nội. Do thiếu vốn đầu tư, hiện nay chúng tôi vẫn phải đi sơ chế nấm ở cơ sở khác. Chỉ cần vay được khoảng 500 triệu đồng tiền vốn thôi, doanh nghiệp của chúng tôi sẽ mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm cho 50 lao động và bao tiêu sản phẩm cho khoảng 200 hộ nông dân trong vùng.
Chị Phạm Thị Cúc bày tỏ:
- Ngoài việc giúp chị em có cuộc sống khấm khá hơn, mơ ước của tôi là một ngày nào đó sẽ xây được một hội trường ngay tại công ty, có phòng trưng bày các kỷ vật của những nữ chiến sĩ Trường Sơn. Hằng năm, cứ đến ngày truyền thống, chị em sẽ về đây gặp mặt, ôn lại những kỷ niệm và chia sẻ kinh nghiệm làm ăn.
Tôi được các chị mời “dùng bữa” để thưởng thức những nông sản mà họ làm ra. Vị nấm sò thơm thơm. Món sa-lát nấm rơm beo béo. Miếng nấm mỡ ngậy ngậy. Những quả dưa chuột, cà chua nhót rôn rốt, chua chua… Tất cả là thứ hương vị đồng quê, đất bãi. Tôi hiểu, để có những sản vật thơm ngon đó là nhờ mồ hôi, công sức và cả nước mắt của những cô gái Trường Sơn thuở nào.
Ninh Bình tháng 5-2009
Bài và ảnh: LÊ THIẾT HÙNG