Đất giữ chân người
Trong chuyến công tác trên tuyến biên cương Đông Bắc, chúng tôi có chuyến thị sát cùng Thượng tá Đỗ Văn Long, Giám đốc Lâm trường 155 (Đoàn KT-QP 327). Anh Long đang nắm tình hình thực tế, chuẩn bị cho việc triển khai mô hình cấp đôi lợn nái sinh sản giúp 50 hộ nghèo phát triển kinh tế tại 2 xã: Đồng Văn và Đồng Tâm của huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Tại xã Đồng Văn, sau khi làm việc với lãnh đạo, chính quyền địa phương, nắm danh sách các gia đình nằm trong diện được giúp đỡ, anh đã trực tiếp đến từng hộ dân để biết rõ về hoàn cảnh kinh tế gia đình, điều kiện chăn nuôi, đặc biệt là “ý thức” trong việc thoát nghèo để có hướng triển khai cho đơn vị giúp đỡ, bảo đảm không “lệch chuẩn”. Cùng đi với Thượng tá Đỗ Văn Long đến từng hộ dân, anh Tằng Văn Lầu, Bí thư chi bộ bản Phạt Chỉ, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu tấm tắc bảo, bộ đội Long sâu sát lắm, anh ấy nói rằng để dự án có hiệu quả thì phải nắm từng nhà, rà từng người để hiểu được điều kiện của từng hộ cũng như hệ thống chuồng trại, từ đó xây dựng kế hoạch tập huấn kỹ thuật chăn nuôi cho họ. Những hộ nằm trong diện được giúp đỡ, qua khảo sát thấy chưa đủ điều kiện thì nhất quyết chưa triển khai bởi sẽ không mang lại hiệu quả...
Ở bản Nà Sa (xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh), anh Hoàng Thiêm Hưởng (bên phải) được nhiều người biết đến bởi cách làm ăn giỏi.
Thấm thoắt đã hơn 15 năm Thượng tá Đỗ Văn Long gắn bó với vùng đất biên cương này. Chẳng biết còn bản làng nào của huyện Bình Liêu còn thiếu dấu chân anh. Nắng gió, công việc vất vả có thể làm cho nước da của người cán bộ lâm trường sạm đi, nhưng tình yêu đối với mảnh đất nơi địa đầu Tổ quốc trong con người anh thì không dễ phai nhạt.
Trung tá Khúc Thừa Xuyên, Trưởng ban Chính trị Lâm trường 27 (Đoàn KT-QP 327), là một trong những người đặt nhát cuốc đầu tiên khai mở mảnh đất hoang hóa bên kia ngầm Lục Lầm (nay là Tiểu khu 9, phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái). Đã 17 năm trôi qua, nhưng với anh, những tháng ngày vượt khó đó vẫn còn hằn sâu trong tâm trí. Nhiều lúc chính anh cũng không hiểu tại sao khi ấy mình lại mạnh mẽ đến thế. Cả vùng đất hoang hóa khô cằn chỉ có những loài cây bám biển mới có thể sống được. Rồi muỗi, dĩn nhiều như rắc trấu, khó khăn trăm bề... Tất cả chỉ có đôi bàn tay trắng, không nhà cửa, không điện, nước sạch, không đường đi lại... Tóm lại là nhiều “không” trên mảnh đất này. Vậy mà cứ cần mẫn, ngày qua ngày, anh và đồng đội với đôi bàn tay chai sạn khai hoang, phục hóa, vận động nhân dân di dãn dân ra vùng dự án.
Trung tá Nguyễn Văn Cường, Phó giám đốc Lâm trường 156 thì không quên thời điểm đến nhận nhiệm vụ nơi biên cương heo hút này, anh và đồng đội cảm giác như bị lạc vào một thế giới khác. Rừng xanh, núi đỏ. Rét thì thấu xương, còn nóng thì cũng rám thân người... Công việc ổn định nơi ăn, ở đã gặp phải muôn vàn khó khăn. Nhớ lại thuở ban đầu ấy, Trung tá Nguyễn Văn Cường vẫn không khỏi bồi hồi, anh cho biết, các đội sản xuất của lâm trường thường được bố trí xa khu trung tâm, nên việc vận chuyển vật liệu xây dựng nhà, lán trại cho bộ đội và khu vực chăn nuôi gặp vô vàn khó khăn. Mây mù quanh năm suốt tháng, đường sá thì tự mở mà đi, vật liệu xây dựng phải “tăng bo” bằng sức người hàng chục ki-lô-mét. Anh Cường ví von việc đưa tấm prô-xi-măng lên non giống như chuyện vận chuyển thương binh thời chiến. Hai người một cáng, sểnh chân là cả hai cùng ngã. Như những con ong tha lâu ngày cũng đầy tổ, lầm lũi làm việc quên cả ngày tháng, đến khi khu vực nhà ở, khu vực chăn nuôi được định hình thì tất cả vỡ òa trong hạnh phúc. Những thành công của buổi ban đầu đã củng cố niềm tin để những người lính lâm trường trụ vững trên dải đất biên cương này.
Ấm tình bộ đội lâm trường
Đại tá Lê Công Thảo, Chính ủy Đoàn KT-QP 327 cho biết, sau chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, tình hình các vùng biên giới của cả nước nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng còn rất nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh để lại. Nhiều vùng không có dân sinh sống do bom đạn, chông mìn của chiến tranh. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, với những tập tục sinh hoạt lạc hậu... Đó chính là những căn nguyên để Đảng, Nhà nước ta đề ra chủ trương xây dựng các khu KT-QP, với mục đích đưa nhân dân trở lại biên giới, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền biên giới quốc gia.
Từ chỗ đất không có người ở, với phương châm “3 bám, 4 cùng”, cán bộ, chiến sĩ các lâm trường luôn sát cánh cùng bà con gây dựng cơ sở vật chất, chuyển giao khoa học kỹ thuật và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị. Đến nay, trên dọc dải biên cương này đã không còn “bản trắng” đảng viên. Trung tá Đỗ Mạnh Cường, phụ trách Đội sản xuất số 3, Lâm trường 103, vẫn không quên những tháng ngày xuôi ngược để định hình bản mới Tân Đức (xã Quảng Đức, huyện Hải Hà), một bản được thành lập mới hoàn toàn do bà con các vùng ven sông bị sạt lở ở Hà Tây (cũ) và Phú Thọ... di dời lên từ năm 2005. Bộ đội Lâm trường đã giúp họ ổn định nơi ăn ở, kết hợp sản xuất, tạo sinh kế lâu dài. Hệ thống điện-đường-trường-trạm cũng từng bước được hình thành. Trung tá Đỗ Mạnh Cường là người được tin tưởng giao nhiệm vụ kiêm nhiệm Bí thư chi bộ của bản mới. Bà con đến đây lập nghiệp từ các vùng quê khác nhau, vấn đề đặt ra đối với người Bí thư chi bộ là phải làm sao cố kết tình cảm gắn bó, không phân biệt vùng miền, tập trung xây dựng hệ thống tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể. Đây là bài toán khó những tưởng không thể không làm. Sau nhiều lần vận động, thuyết phục, người dân cũng đã bầu được trưởng bản. Nhiều người nói bản Tân Đức được như bây giờ là có sự chung sức của nhiều cấp, nhiều ngành và nhờ công sức của người trưởng bản đầu tiên-Trung tá Đỗ Mạnh Cường. Từ chỗ lúc đầu cả bản chỉ có 2 đảng viên, Đảng ủy xã phải phân công đảng ủy viên xuống sinh hoạt mới đủ điều kiện thành lập chi bộ..., đến nay bản mới Tân Đức đã có 5 đảng viên, đủ điều kiện thành lập chi bộ.
Có dịp “thực mục sở thị” mới nhận thấy vùng đất biên cương Đông Bắc đang đổi thay từng ngày. Ở bản Nà Sa, xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu, gia đình anh Hoàng Thiêm Hưởng được nhiều người biết đến bởi cách làm ăn giỏi, biết áp dụng thành công những tiến bộ khoa học kỹ thuật theo các mô hình kinh tế VAC do bộ đội Lâm trường 156 chuyển giao. Dẫn chúng tôi đi thăm vườn cam đường sai trĩu quả, chị Hoàng Thị So (vợ anh Hưởng) cho biết: "Cây giống do lâm trường cấp, lại được tham gia tập huấn kỹ thuật và các anh bộ đội lâm trường còn trực tiếp hướng dẫn cách trồng nên vườn cam của gia đình tôi phát triển tốt, ít bị sâu bệnh. Hơn 200 cây mỗi năm cho thu hoạch trên dưới 4 tấn quả, đem lại khoản thu hơn 20 triệu đồng. Ngoài ra còn ao cá, trước đây vốn là một “họng” nước, bộ đội lâm trường đã tư vấn và giúp gia đình đào ao thả cá. Hiện tại, chiếc ao này mỗi năm cũng cho thu hoạch gần 1 tấn cá".
Cộng thêm các khoản thu từ đàn trâu gần chục con, gần hai chục con lợn rừng, rồi đàn ngan, gà, vịt... thu nhập hằng năm của gia đình anh Hưởng cũng được khoảng gần 100 triệu đồng. Tích cóp dần, gia đình anh chị đã xây được căn nhà hai tầng khang trang cùng nhiều vật dụng sinh hoạt khác. “Gia đình tôi đã thoát nghèo rồi, thành quả ấy có được là nhờ sự góp sức của bộ đội Lâm trường 156”-chị Hoàng Thị So phấn khởi cho biết.
Đại tá Trần Lực, nguyên Giám đốc Lâm trường 42, Đoàn KT-QP 327, sau nhiều năm lăn lộn với vùng biên Đông Bắc, đến tuổi nghỉ hưu, anh đã xác định ở lại, tiếp tục xây dựng vùng đất này. Anh Lực giờ đã trở thành “lão nông tri điền” thực sự với hơn 4,6ha đầm nuôi tôm ở khu nuôi trồng thủy sản thuộc “địa hạt” của Lâm trường 27, phường Hải Hòa, TP Móng Cái. Anh Lực tâm sự rằng, về với đời thường, anh thấy khỏe ra. Ngày đêm “điền viên” với đầm hồ, cùng con tôm, con cua, con cá..., mỗi năm, thu nhập từ nuôi trồng thủy, hải sản của gia đình anh cũng được hơn 100 triệu đồng. Đại tá Trần Lực nguyện sẽ gắn bó với mảnh đất này, bởi nó lưu giữ kỷ niệm của anh qua bao năm quân ngũ.
Theo Thượng tá Nguyễn Xuân Thịnh, Giám đốc Lâm trường 27 thì cả vùng dự án của lâm trường đang chuyển mình, bởi đất đã quyện hơi người mà cho con tôm, con cá. Nếu như trước đây phải vận động mãi người dân mới tham gia dự án thì ngày nay từng mét vuông đầm đã đem lại giá trị kinh tế cao, đẩy giá trị từng tấc đất khu vực này sánh ngang đất đô thị của thành phố Móng Cái và Tiểu khu 9 của phường Hải Hòa đang từng ngày thay da đổi thịt.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, một trong những điểm thành công nhất của Đoàn KT-QP 327 trong gần 17 năm qua là đã tham gia có hiệu quả vào việc di dãn dân ra bám biên, giúp họ ổn định cuộc sống và an tâm làm ăn phát triển kinh tế, đời sống ngày một khấm khá hơn, trụ vững nơi mảnh đất địa đầu của Tổ quốc. Nhờ thế mà đến nay, toàn tuyến biên giới không còn điểm trắng dân, tạo "phên giậu" vững chắc, góp phần giữ vững chủ quyền lãnh thổ và ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên vùng biên Đông Bắc.
Từ năm 1999 đến nay, Đoàn KT-QP 327 đã phối hợp với tỉnh Quảng Ninh bố trí di, dãn 1.279 hộ dân với 4.836 khẩu. Trong đó Khu KT-QP Bình Liêu-Hải Hà-Móng Cái được 888 hộ với 3.261 nhân khẩu; Khu kinh tế Bắc Hải Sơn được 391 hộ với 1.575 khẩu; tách hộ tại chỗ ổn định dân cư 593 hộ với 2.276 khẩu. Khôi phục được 15 thôn, thành lập 2 thôn, bản mới; tách 1 xã mới (xã Hải Sơn thành 2 xã Bắc Sơn và Hải Sơn ). Trước khi dự án được triển khai, đời sống nhân dân vùng dự án còn gặp nhiều khó khăn với tỷ lệ hộ nghèo cao. Khu KT-QP Bình Liêu-Hải Hà-Móng Cái có 61,7% hộ thuộc diện nghèo; Khu KT-QP Bắc Hải Sơn có 55,2% hộ thuộc diện nghèo. Đến nay, Khu KT-QP Bình Liêu-Hải Hà-Móng Cái chỉ còn 19,5% hộ nghèo; Khu KT-QP Bắc Hải Sơn còn 5% hộ nghèo. Thu nhập bình quân đầu người trong khu vực đạt 14,3 triệu đồng/người/năm.
|
Bài và ảnh: NGÔ DUY ĐÔNG