Bà Nguyễn Thị Tám và chị Vũ Thị Hồng soạn kỷ vật của liệt sĩ.

Trên nhà giàn lúc ấy có 9 anh em: Trạm trưởng Vũ Quang Chương, Phó trạm trưởng Dương Văn Hoan, y sĩ Nguyễn Hữu Tôn, nhân viên cơ yếu Hà Công Dụng, nhân viên thông tin Hoàng Văn Thủy, nhân viên báo vụ Phí Ngọc Thuật, pháo thủ  Nguyễn Văn Thơ, nhân viên ra-đa Lê Đức Hồng, nhân viên cơ điện Nguyễn Hữu An. Khoảng 22 giờ 50 phút, một cơn sóng to tràn qua khiến nhà bị nghiêng. Đồ đạc trong nhà đổ tung tóe, chiếc ti-vi trên bàn rơi xuống, ấm chén bay loạn xạ, toàn bộ giá gạo trong kho đổ sập, giường tủ bàn ghế chạy đi, chạy lại. Trưởng trạm Chương ra lệnh cho Hoàng Văn Thủy báo cáo tình hình nhà bị nghiêng về đất liền. Chỉ huy từ đất liền động viên anh em bám trụ, sẽ cử tàu ra đón người. Vũ Quang Chương triệu tập cuộc họp toàn trạm, động viên tinh thần anh em: “Đây là giờ phút nguy nan, thử thách lòng can đảm của những chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam. Chúng ta quyết tâm bám giữ trạm đến cùng. Trường hợp nguy cấp, có lệnh của tôi mới được rời vị trí”.  Đề phòng tình huống xấu, anh  phân công mọi người chuẩn bị áo phao, phao cứu sinh, phao bè... Hơn 12 giờ đêm, dây nguồn điện của máy sóng ngắn M700 TY nối ắc quy bị đứt, Hoàng Văn Thủy bình tĩnh khắc phục sự cố, nối lại dây nguồn. Vừa lên máy đã nghe tiếng gọi các nhà giàn và đất liền: “Sông Lam 42 (tên liên lạc của nhà giàn 2A/DK1-6 Phúc Nguyên) lên máy đi Đà Lạt 01 gọi?”. Hoàng Văn Thủy giọng lạc đi báo về đất liền: “Báo cáo thủ trưởng cùng các đồng đội, nhà rung mạnh không thể chịu đựng nổi qua đêm nay”. Tiếng chị Vân, nhân viên trực thông tin tại Hải Phòng gọi vào động viên: “Em Thủy ơi, chị luôn ở bên em. Anh em ngoài đó cố gắng bám trụ, các chú sẽ điều tàu ra cứu em và đồng đội của em”.  Khoảng 1 giờ 45 phút sáng, gió to làm đứt dây an-ten và mất liên lạc. Hoàng Văn Thủy báo cáo, anh Chương ra lệnh tìm mọi cách khắc phục nối thông tin để nhận lệnh từ Sở chỉ huy. Hoàng Văn Thủy hiểu rõ trách nhiệm người chiến sĩ thông tin, bằng mọi giá phải nối thông liên lạc để ở nhà đỡ lo lắng. Anh trèo lên nóc nhà giàn, gió to thổi u, u như muốn hất anh xuống biển, mưa quất rát mặt.  Không chùn bước, anh lần tìm chỗ đứt an-ten nối lại. Hơn 2 giờ sáng, thông tin lại thông suốt, tiếng gọi từ các đài tha thiết: “Sông Lam 42, Sông Lam 42, trả lời đi... nhà giàn có còn không? Các đồng chí đâu rồi?”.  Trung úy Nguyễn Văn Hoan vào kho lấy bao gạo ra chèn phao cứu sinh liền bị  giá gạo đổ sập xuống vào chân. Hoàng Văn Thủy thì bị chiếc tủ sắt đổ vào người. 

Sóng mỗi lúc một to, anh Chương ra lệnh cho anh em mặc áo phao sẵn sàng thoát khỏi nhà giàn. Mọi người lấy dây mồi buộc vào tay nhau để khi nhà đổ xuống biển vẫn tìm thấy nhau. Mỗi khi có cơn sóng to ào đến trước mặt, họ lại nhắm mắt nín thở cầu mong nhà không đổ. Nhà giàn càng lắc lư chao đảo mạnh theo từng cơn sóng dữ. Chiến sĩ Hoàng Văn Thủy năm ấy mới 21 tuổi đời, anh gọi điện đàm về đất liền: “Chị Vân ơi! Nhà em sắp bị đổ rồi, em nhờ chị viết thư báo tin cho bố mẹ em. Bố em tên là Hoàng Văn Sơn, mẹ em tên là Lê Thị Tịnh xóm 9 Mỹ Sơn, Đô Lương, Nghệ An. Nhà giàn đổ, chúng em trôi trên biển, xác định là chết…”. Lúc 3 giờ 30 phút, một cơn sóng lớn tràn qua, máy phát điện bị đổ, đèn phụt tắt. Sau khi nhận được lệnh cuối cùng từ sở chỉ huy, Đại úy Vũ Quang Chương hô lớn: “Tất cả chuẩn bị rời trạm, khi xuống biển nhanh chóng bám chặt vào phao!”. Dù được lệnh như vậy nhưng những người lính nhà giàn DK1 vẫn kiên cường không rời nhà giàn, quyết bám trụ đến phút cuối cùng.  Rồi một cơn sóng kinh hoàng, dựng đứng như vách núi, đập mạnh vào nhà giàn, trùm lên đầu họ. Nhà giàn không trụ được nữa. Lúc đó là khoảng 4 giờ kém 10 phút ngày 13-12-1998. Đại úy Chương lệnh cho tốp đầu bám phao cứu sinh nhảy xuống biển trước.

Chiến sĩ Thủy và Trạm trưởng Chương rời khỏi nhà giàn sau cùng. Hoàng Văn Thủy mang theo tài liệu mật của ngành thông tin và súng pháo hiệu với 10 viên đạn. Trước khi lao xuống biển, chiến sĩ Thủy đã kịp gọi về đất liền gửi lời chào: “Chúng em chào các thủ trưởng, chúng em đi đây”.  Anh còn nghe tiếng giục của Trạm trưởng Chương: “Nhảy ra đi Thủy ơi! Nhà đổ rồi…”.

Đại úy Vũ Quang Chương trong giờ phút sinh tử ấy vẫn bình tĩnh chỉ huy anh em rời nhà giàn, đồng thời anh thu xếp tài liệu, cuốn lá cờ đỏ sao vàng vào lòng rồi rời nhà giàn sau cùng. Nhưng ác nghiệt thay, phong ba bão táp, sóng thần dữ dội đã cướp đi sinh mạng anh và 2 đồng đội là nhân viên cơ điện Nguyễn Hữu An và nhân viên ra-đa Lê Đức Hồng. 6 anh em còn lại vật lộn với sóng biển suốt 14 giờ  trên biển. Họ phải đối mặt với những con sóng kinh hoàng như muốn nhấn chìm họ xuống biển sâu, những giọt mưa táp vào mặt...  Mãi đến gần 6 giờ tối ngày 13-12-1998, họ mới được tàu 606 phát hiện và vớt lên tàu.

Nỗi đau và niềm thương tiếc

Bà Nguyễn Thị Tám thắp hương cho liệt sĩ.

Vũ Quang Chương hy sinh, nhưng gia đình vẫn không hề hay biết. Ngày 14-12, sau một ngày anh hy sinh,  Út Hồng vẫn viết thư cho anh:

Ký túc xá, ngày 14-12-1998

Anh thương kính!

Cơn bão số 8 còn đang cuồng giật, lẩn quất đâu đây. Nghe đài báo bão bờ biển Nha Trang, Vũng Tàu gió giật, biển động mạnh, em lại càng nhớ, thương anh nhiều hơn. Không biết giờ này, nơi ấy, anh đang làm gì? Với những lần giông bão đi qua có làm cho nhà giàn của anh chao đảo? Anh của em lại thêm một lần mệt mỏi lắm chăng anh? Ở ngoài biển chắc lạnh nhiều anh nhỉ? Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe và cẩn thận với những con sóng bạc đầu. Mỗi lần nghe đài báo bão em lại lo cho anh nhiều…

Mãi gần một tháng sau, có người ở quê vào báo tin khả năng Vũ Quang Chương đã hy sinh. Ông Vũ Quang Dương vội khăn gói đến Vũng Tàu tìm vào Đoàn Hải quân M71 để nắm tình hình. Nghe tin con đã hy sinh, lòng ông đau như cắt, không dám báo tin thật về nhà, ông nói dối: “Tết này anh Chương sẽ về phép”, nhưng nghe tiếng khóc của ông trong điện thoại, người em của anh Chương là Vũ Quang Chuyên, vốn đã yếu thần kinh, ngã ra, ngất đi. Bà Nguyễn Thị Tám lại phải chạy đôn chạy đáo đi thuê xe cấp cứu đưa con lên bệnh viện huyện. Chứng kiến những giây phút đau thương của gia đình liệt sĩ Chương, ông Bùi Hữu Thái kể: “Hoàn cảnh gia đình lúc ấy thật bi đát, một con thì hy sinh ở biển khơi, còn một thằng thì nằm trên bệnh viện tỉnh chờ chết, trong nhà không còn một xu. Tôi còn phải đi mượn nóng mấy trăm ngàn cho chị Tám thuê xe đưa con đi cấp cứu…”.

Từ ngày anh Chương mất, bà Tám ngã bệnh. Bà bị chứng teo cơ, giờ đây tay chân bà chỉ còn da với xương. Trước tình cảnh gia đình như vậy, ông Dương phải đem anh Vũ Quang Chuyên về quê Thái Bình sinh sống. Nhớ thương con khôn nguôi, mỗi lần có thời gian ông lại tìm về những nơi Vũ Quang Chương đóng quân để hy vọng tìm thấy một đứa con mà biết đâu anh Chương để lại cho ông và gia đình… Còn chị Vũ Thị Phương, do nhiễm chất độc da cam, nên bệnh tật ốm đau luôn, lại thường xuyên bị nổi u các khớp xương. Nhà chồng đã bỏ rơi chị và đứa con từ lúc còn trong bụng mẹ. Chị phải để con cho ông bà nuôi, vào Đồng Nai làm công nhân, nay chị đã đi bước nữa với người chồng khác. Còn Vũ Thị Hồng, sau khi ra trường đi dạy ở trường tiểu học cách nhà hơn 10 cây số. Hồng đã lấy chồng tại Eakly. Nhiều lần các con đề nghị bố mẹ bán vườn tược về quê để đỡ cảnh một chốn đôi nơi, nhưng ông Dương kiên quyết giữ lại ngôi nhà, mảnh rẫy mà liệt sĩ Vũ Quang Chương đã đổ biết bao mồ hôi gây dựng nên. Anh Nguyễn Trọng Quang, chồng của Út Hồng thương bố mẹ vợ, đóng cửa nhà mình lại, về ở rể để chăm sóc mảnh vườn của liệt sĩ Vũ Quang Chương. Một điều buồn nữa là hiện nay mới chỉ có ông Vũ Quang Dương và anh Vũ Quang Chuyên được hưởng chế độ của nạn nhân chất độc da cam.

Đã 11 năm trôi qua, nhưng với Út Hồng và gia đình, Vũ Quang Chương vẫn còn sống, chỉ đi công tác xa chưa về. Cô giáo Hồng đã viết bài thơ “Đợi anh mãi không về”:  Anh đi công tác xa/ Mãi chẳng về thăm nhà/ Em cứ đợi, chờ anh trong hi vọng/ Dẫu mong manh một niềm tin đích thực/ Có phải chăng anh bận vẫn chưa về?/ Kỷ niệm về anh như hạt nắng tràn trề/ Cứ ấm mãi, quyện vào lòng ký ức/ Em nhớ tiếng cười anh rạo rực/ Cởi mở, vô tư, ngập tiếng yêu đời/ Đôi mắt anh long lanh sáng ngời/ Cứ nhìn em yêu thương trìu mến thế/ Tiếng nói anh “Út yêu thương, anh quý!”/ Phép sau về anh vẽ lại bức tranh quê/ Anh kính yêu ơi, anh có biết?/ Mẹ chờ anh tóc điểm bạc mái đầu/ Cha trăn trở những vết hằn cuộc sống/ Và em tin, tin rằng anh còn sống/ Sống trong em một sức sống tràn trề/ Dưới trăng mờ thấp thoáng bóng anh về/ Anh tủm tỉm mỉm cười-anh còn bận” .   

Sự hy sinh của liệt sĩ Vũ Quang Chương cùng các liệt sĩ trên vùng biển thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc đã trở thành biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời kỳ mới. Hình ảnh liệt sĩ Vũ Quang Chương ôm cờ Tổ quốc thanh thản đi vào lòng biển đã trở thành cột mốc chủ quyền bất tử, hiên ngang giữa biển khơi, tạo thành mạch nguồn sức mạnh to lớn, cổ vũ, động viên, thôi thúc thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục trân trọng, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng biển, đảo của Tổ quốc Việt Nam.

ĐOÀN HOÀI TRUNG
Liệt sĩ ôm cờ trong lòng biển (kỳ 2)
Liệt sĩ ôm cờ trong lòng biển (kỳ 1)