(Tiếp theo kỳ trước)
 |
Bà Nguyễn Thị Tám và gia đình em Vũ Thị Hồng trước ngôi nhà ở Tây Nguyên. |
Mỗi lần về quê, thấy gia cảnh khó khăn, các em thì nhỏ dại, bệnh tật, bố mẹ già yếu, Chương không cầm lòng được. Trong lần lên thăm ông chú họ là Bùi Hữu Thái, đang làm công nhân trên nông trường 719 ở xã Eakly, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắc Lắc, Chương thấy mê vùng đất Tây Nguyên phì nhiêu, dân cư còn thưa thớt, giá đất còn rẻ. Hơn nữa, từ Cam Ranh, nơi anh đóng quân về Eakly chưa đầy 100km. Anh về bàn với gia đình theo anh vào Nam sinh sống để có gì anh còn gần gũi giúp đỡ. Chương đã dành dụm được ít tiền bạc, vay mượn thêm bạn bè cùng với sự góp sức của gia đình, anh mua rẫy rộng 8 sào ở thôn 13, Eakly với giá 2,3 cây vàng. Năm 1995, ông Vũ Quang Dương và con gái Vũ Thị Phương vào miền Nam. Đầu năm 1997, cả nhà cùng rời quê Thái Bình vào thôn 13, Eakly để bắt đầu cuộc sống mới. Ông Bùi Hữu Thái kể cho tôi nghe về Vũ Quang Chương với niềm khâm phục: “Tôi chưa thấy người thanh niên nào hiếu thảo như cháu Chương, mỗi lần về phép, cháu cởi trần ra đào đất, san vườn, luôn chân luôn tay. Người cháu rắn chắc như cục gạch, làm khỏe khó ai bì kịp. Vườn lúc mới mua toàn cỏ với ụ mối, chỉ có độ gần 100 cây cà phê. Tự tay cháu ban đất, đào hố, mua giống về trồng cả vườn cà phê gần ngàn gốc. Tôi có giục cháu lấy vợ, nhưng cháu cười bảo: “Để cháu lo cho bố mẹ và các em xong, rồi mới nghĩ đến chuyện riêng”.
Đối với Vũ Thị Hồng thì hình ảnh người anh cả luôn theo chị suốt cuộc đời này. Là con gái út trong nhà, chị được anh Chương thương yêu nhất, ngày còn bé mỗi lần về phép anh Chương thường bế em chạy quanh sân và dạy em vẽ con mèo, con chó và phong cảnh làng quê. Học xong lớp 10 ở Thái Bình, Hồng chuyển vào Đắc Lắc thi vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đắc Lắc. Cuối năm 1997, Hồng bước vào năm thứ nhất cũng là năm anh Chương chuyển về Khung quản lý DK1 thuộc Đoàn Hải quân M71. Hồng giở lại những lá thư mà liệt sĩ Vũ Quang Chương đã viết cho gia đình. Được sự đồng ý của gia đình, tôi xin được trích đăng một số lá thư trước ngày anh hi sinh:
“Đơn vị, ngày 2-11-1997
Hồng em yêu quí!
Anh đã trở về đơn vị một cách an toàn và may mắn. Nay anh gửi thư đến thăm em. Trước tiên, anh chúc em mạnh khỏe, học tập tiến bộ là anh mừng rồi đó. Hồng ạ! Anh rất muốn gần bố mẹ cùng các em, song sự giới hạn của thời gian nghỉ phép chỉ chừng ấy ngày thôi. Anh rất thương bố, mẹ và các em, nên phải cố gắng học tập đừng phụ lòng mình, đừng phụ lòng bố mẹ để buồn cho gia đình. Còn sống ở lĩnh vực tập thể anh đã hiểu, chỉ vài bước chân là mọi chuyện đã đổi khác rồi, nên em phải thận trọng trong cuộc sống giữa biển đời mênh mông, suy nghĩ chín chắn với mọi hành động, mọi việc làm đừng chủ quan và đừng manh động. Chỉ sảy chân một tí là mọi cái xa rồi. Nói vậy nhưng không phải anh cấm đoán chỉ nhắc để em chú ý trong quan hệ sao cho đúng mực…. Không có gì thay đổi từ nay đến tháng 12 anh sẽ đi biển. Khi nào anh về sẽ có quà thưởng cho em gái…”.
…
“Út thương quý của anh!
Ngoài trời vẫn tí tách những giọt mưa, con sóng vô tình cứ vỗ vào đêm ào ạt, nhớ em nhiều, anh gửi lời theo con đường nhỏ về thăm em.
Anh tiễn em về lớp sau những ngày hè, còn gia đình tiễn chân anh về đơn vị sau một ngày. Vừa về đến đơn vị, thì anh nhận quyết định phải đi công tác ngay sau đó 12 giờ đồng hồ, không kịp chuẩn bị bất cứ cái gì cả. 4 giờ ngày 6-9, con tàu cứ thế lầm lũi tiến về phía đại dương mênh mông. Anh theo nó và mang theo cả hơi ấm tình thương của gia đình, làm hành trang thiêng liêng và chính là vũ khí của anh khi cất bước vào đời.
Bây giờ anh đang công tác trên Trạm Phúc Nguyên 2A, anh vẫn khỏe, vẫn nhớ các em và thương bố mẹ nhiều. Em cần cố gắng học tập “có ý chí-có chí khí-sẽ có niềm tin”. Anh rất vui mừng trong những ngày hè ngắn ngủi của em và những ngày phép gấp rút của anh, cả gia đình quây quần đầm ấm. Thời gian công tác ở ngoài này không biết đâu mà nói trước được, nhưng chắc rằng tết này anh không về. Lại mùa xuân nữa vắng nhà. Mùa này biển thường hay cáu kỉnh nổi giận bằng những cơn giông. Tiếng hòa ấm của sóng và gió ì ầm suốt cả ngày.
Anh dừng bút, anh gửi cho em một triệu đồng để em bồi dưỡng học tập…”.
Cũng trong lần về phép cuối cùng ấy, Vũ Văn Chương đã tự mình vẽ thiết kế nhà ở cho cha mẹ. Anh dồn tiền làm móng nhà trước khi đi, hẹn ngày về phép sang năm sẽ làm nhà cho bố mẹ hưởng tuổi già, ai ngờ mơ ước ấy anh không thực hiện được.
Mang theo cờ Tổ quốc vào lòng biển
Tôi đã tìm gặp Thiếu tá quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Hữu Tôn và Trung úy Hoàng Văn Thủy, hai người đã sống sót trong vụ đổ nhà giàn 2A/DK1-6 Phúc Nguyên cách đây hơn 10 năm.
Anh Tôn sinh 1965, quê ở Bắc Ninh, nhập ngũ năm 1984, công tác tại Tỉnh đội Hà Bắc, sau đó được đi đào tạo y sĩ. Ra trường năm 1989, anh Tôn được về công tác tại Đoàn Hải quân M71, đúng vào dịp bắt đầu hình thành DK1. Ngày 5-7-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra chỉ thị số 180/CT chính thức công bố về việc xây dựng DK1 tại khu vực bãi đá ngầm trên thềm lục địa phía Nam, cũng là ngày anh Tôn ra nhà giàn DK1. Từ đó anh gắn bó với biển trên các nhà giàn. Anh bắt đầu biết Đại úy Vũ Quang Chương trong lần đi công tác nhà giàn DK1-16, bãi cạn Phúc Tần đầu năm 1998. Anh Chương là Phó trạm trưởng, còn anh Tôn là y sĩ của trạm. Cuộc sống ở nhà giàn lúc đó rất gian khổ, luôn luôn đối phó với thiên nhiên khắc nghiệt. Có những đêm hai người nằm tâm sự chuyện gia đình. Anh Tôn, lúc ấy đã có vợ và hai con, giục anh Chương: “Kỳ này nghỉ phép vào bờ, anh kiếm một cô cưới làm vợ để ổn định cuộc sống”. Vũ Quang Chương gạt đi: “Mình bây giờ chưa nghĩ đến chuyện vợ con, gia đình mình còn khó khăn lắm, mình muốn ổn định cuộc sống cho các cụ và các em trước đã…”. Có lần trạm giúp đỡ thuốc men, nước ngọt cho ghe đánh cá, họ cho trạm chiếc vỏ đồi mồi. Anh em cưa nhỏ chia nhau mỗi người một miếng để làm cặp tóc, kỉ niệm người thân. Mấy chiến sĩ không biết làm bị gãy hết, anh Chương nảy sáng kiến đem luộc cho mềm miếng vỏ đồi mồi, sau đó mới gọt tỉ mẩn thành chiếc lược đẹp để tặng mẹ.
Sau kì nghỉ phép, tháng 7-1998, Nguyễn Hữu Tôn được điều ra nhà giàn 2A/DK1-6 Phúc Nguyên. Sau đó hơn tháng, Trạm trưởng Vũ Quang Chương cùng chiến sĩ thông tin Hoàng Văn Thủy, sinh năm 1977, quê ở Đô Lương, Nghệ An ra công tác tại nhà giàn Phúc Nguyên 2A. Hôm ấy, biển động, sóng lớn, ca-nô không vào sát chân nhà giàn được. Trạm trưởng mới cùng chiến sĩ Thủy phải bơi vào chân cầu thang nhà giàn để leo lên. Anh Tôn nhận ra Vũ Quang Chương, hai người ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Với cương vị mới, là trạm trưởng, Vũ Quang Chương đã thể hiện tính quyết đoán trong công việc, trong sinh hoạt thì phê bình thẳng thắn, trong cuộc sống thì chan hòa, gần gũi. Hôm nhân viên cơ điện Nguyễn Hữu An nhận tin vợ đẻ con trai, cả nhà giàn cùng vui mừng. An bần thần cả người, lúc khóc, lúc cười chỉ muốn được về nhà ngay. Anh Chương đã động viên và hứa sẽ bố trí cho An về chuyến tàu gần nhất để được cảm ơn gia đình, họ hàng đã giúp vợ anh trong những ngày vợ vượt cạn. Nhưng rồi điều mong ước ấy của An mãi không thành hiện thực.
Đêm cuối cùng trước ngày nhà giàn đổ, Hoàng Văn Thủy còn nằm cùng giường với Vũ Quang Chương. Ngoài trời mưa to, sóng lớn, hai anh em nằm tâm sự kể chuyện quê nhà, anh Chương còn hứa với Thủy: “Kỳ này về phép, nhất định anh sẽ đến nhà em chơi, cũng là để thăm quê hương Bác Hồ, sau đó em lên nhà anh ở Tây Nguyên nhé. Anh sẽ giới thiệu cho em làm quen cô em gái đang học sư phạm, đẹp người mà ngoan ngoãn…”. Nhớ về người trạm trưởng, Hoàng Văn Thủy xúc động không cầm được nước mắt: “Anh Chương là người chỉ huy chín chắn, điềm đạm, anh như có sức hút kỳ lạ, khiến anh em trong trạm vừa phục tùng mệnh lệnh của anh vừa coi anh như người anh thân thiết. Hình ảnh của anh luôn theo tôi, động viên tôi trên bước đường sự nghiệp”.
Những ngày đầu tháng 12-1998, mặt biển bãi đá cạn Phúc Nguyên trở nên mịt mù, gió rít từng cơn, sóng bạc đầu tung bọt trắng xóa. Cơn bão số 8 tràn qua, Nhà giàn 2A/DK1-6 Phúc Nguyên trở nên bé nhỏ, cô đơn trước thiên nhiên hung dữ. Mấy đêm liền, anh em trên nhà giàn chập chờn không ngủ được. Đêm 12-12, những đợt sóng tựa như những quả núi đánh vào chân nhà giàn, khiến nhà rung lên bần bật. Các cửa nhà được đóng kín, lúc đó đi ra ngoài các anh phải bám chặt vào thành lan can, gió mạnh như muốn hất tung người xuống biển.
ĐOÀN HOÀI TRUNG
(Còn nữa)