QĐND Online - Chuyện Kốt-tát Xa-xăng-ti-dít (Kostas Sarantidis), người Hy Lạp, là lính của Trung đoàn lê dương số 2 quân đội viễn chinh Pháp ngày 4-6-1946 bỏ ngũ về với hàng ngũ kháng chiến làm chiến sĩ Liên khu 5 ở Mũi Né (Phan Thiết), đổi tên thành Nguyễn Văn Lập đã được cả nước biết đến qua báo chí. Từ khi về Hy Lạp (1965) đến nay ông đã 5 lần trở lại Việt Nam. Đầu tháng 1-2011 này, ông vào Đà Nẵng thăm đồng đội cũ.

Đây là chuyến đi của ông Nguyễn Văn Lập theo lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang dự Đại hội thi đua yêu nước lần thứ VIII, sau đó trực tiếp Chủ tịch nước trao Huân chương Hữu Nghị và quốc tịch Việt Nam cho ông. Niềm hân hoan này lan tỏa trên gương mặt phúc hậu của người chiến sĩ cộng sản quốc tế đã bước vào tuổi 84. Tại buổi gặp mặt ở Nhà khách Mỹ Khê 1, niềm vui đó dường như nhân lên gấp bội trong không khí ấm áp chân tình. Nhận món quà từ lãnh đạo Quân khu 5, ông nói: “Năm ngày nay về Đà Nẵng được Quân khu 5 bố trí ăn nghỉ chu đáo, nay lại gặp mặt, tặng quà. Liên khu 5 yêu dấu luôn trong trái tim tôi”.

Ông Kôt-tát (thứ 4 từ trái qua) cùng các cựu chiến binh Trung đoàn 803 và 108.

Câu chuyện về Liên khu 5 với những mảnh đất, con người bình dị qua câu chuyện của ông làm mọi người xúc động. Bao nhiêu năm rồi mà ông vẫn nhớ từng món ăn dân dã như nem chợ Huyện, Bình Định, khoai lang Trà Đỏa, khoai chà (khoai nấu chín với đường, phơi khô, chà thành viên) Quảng Nam… Với tiếng Việt khá sõi, ông kể vanh vách đặc điểm từng vùng miền với sự thích thú. Hình như tỉnh nào của Liên khu 5 cũng có dấu chân ông gắn với kỷ niệm kháng chiến. Khi đồng đội là cựu chiến binh Trung đoàn 803 gợi lại: “Nhớ nhất là Đức Phổ, Quảng Ngãi bởi nơi đây có mối tình đầu phải không?” thì ông cười bẽn lẽn cứ như chàng trai tuổi 20 ngày nào.

Luôn cho rằng “mình đã làm được gì đâu”, nên ông ít khi nhắc về những năm tháng đầu trần chân đất, sát cánh cùng với chiến sĩ Liên khu 5 chiến đấu chống Pháp, chuyện bắn máy bay, chuyện quản lý trại tù binh và cảm hoá chúng, chuyện kết nạp Đảng… Ông bảo rằng, cuộc đời ông luôn biết ơn những người phụ nữ Việt Nam. Người vợ đầu tiên ở Đức Phổ (đã mất khi cưới được vài năm) cho ông sự rung động ngọt ngào đầu đời. Người vợ thứ hai ở Hà Nội chịu bao cực khổ thời bao cấp rồi sang Hy Lạp với đàn con dại không nhà cửa, không nghề nghiệp. Vậy mà bà đã cùng ông vượt qua bao khó khăn để có cuộc sống ổn định hôm nay. 4 đứa con mang tên Việt Nam của ông đều đã thành đạt, cùng với bố vận động, ủng hộ hàng ngàn euro cho nạn nhân nhiễm chất độc da cam ở Đà Nẵng. Ông nhắc lại một câu chuyện đã gần 60 năm với giọng rưng rưng: “Lần ấy ở Thăng Bình, Quảng Nam, mình vừa ốm dậy thèm ăn, lại được đồng bào mang đến cho rất nhiều món ngon nên ăn lấy ăn để. Hậu quả là bội thực, suốt đêm đau bụng quằn quại tưởng không qua nổi. Một bà má thấy vậy hỏi căn do rồi nói: “Để má chữa cho”. Mình thấy má xuống bếp, xách cái thớt từng băm thịt cá ra cạo cạo. Bột thớt hòa với nước bảo mình uống. Uống xong, nôn thốc tháo, cơn đau cũng dứt. Mình chắp tay: “Con lạy má, má đã cứu con”. Có lẽ đây là thứ thuộc đặc biệt, thế giới không đâu có”.

Đại tá Võ Văn Minh, nguyên chiến sĩ Trung đoàn 803, bạn đồng hành của ông trên mọi chuyến đi cho hay, vốn nặng ân nghĩa nên lần nào trở lại Việt Nam, ông cũng dành nhiều thời gian thăm lại chiến trường xưa và những gia đình cưu mang ông. Lần thăm lại nhà ông Chánh Ba ở Phú Cang, Thăng Bình, Quảng Nam tháng 6 vừa qua, ông nhắc cả tên những người con của chủ nhà và hỏi thăm làm cho ai nấy đều bất ngờ.

Thế mới biết vì sao, dẫu ở xa hàng ngàn cây số nhưng trái tim ông luôn hướng về Việt Nam và Liên khu 5, nơi ông ngày đầu làm người lính Việt Minh và đi hết cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài và ảnh: HỒNG VÂN A