Đồng đội và nhân dân địa phương trước ngôi miếu thờ 13 liệt sĩ A69, ngày 15-11-2008. Ảnh: HỒNG THẾ

Lèn Hà bi tráng (Kỳ 1)

Lèn Hà bi tráng (Kỳ 2)
Lèn Hà bi tráng (Kỳ 3)
Lèn Hà bi tráng (Kỳ 4)
Kỳ 5:
Tâm thức Trường Sơn...

Chị Phạm Thị Vang lần lượt kể cho tôi nghe khá tỉ mỉ từng chuyến hành hương trong những năm qua về thăm gia đình đồng đội đã khuất. Mỗi gia đình một hoàn cảnh cảm thương. Chuyến đi nào cũng như có sự linh thiêng phù hộ. Cái lần lên Phú Thọ tìm nhà Chu Thị Mạnh, xe đang bon bon trên đường thì tự nhiên văng cầu ra, kéo lộc cộc giữa đường. May không ai việc gì, nhưng mất gần một giờ khắc phục. Trong lúc chờ lái xe sửa chữa, mấy anh em sà vào quán nước, hỏi chuyện mới biết đã đi lạc đường hơn ba chục cây số. “Thế là cái Mạnh nó bắt hỏng xe để quay lại đấy! Mạnh ơi, khôn thiêng thì chỉ đường cho bọn tớ về thăm hai bác và thắp hương cho cậu đi!”. Mọi người khấn thế, không ngờ sau đó xe cứ chạy một mạch đến đúng nhà luôn, không phải dò hỏi gì thêm…

Chuyến tìm về nhà Nguyễn Thị Thảo ở Nho Quan (Ninh Bình) cũng có sự lạ: Bố mẹ Thảo đã mất, khi mọi người đến nhà thì người em trai của Thảo đang đi cày ruộng. Mọi người đang băn khoăn trù tính, thì chợt thấy cậu em vác cày từ ngoài ngõ đi vào. Anh ta kể: Mọi hôm con trâu ngoan lắm, không hiểu vì sao hôm nay mắc cày vào là nó cứ lồng lên phá bĩnh. Quất roi nát mông nó vẫn không chịu, đành thả trâu vác cày về, may quá gặp các chị vào thăm. Quý hóa quá! Cậu em bật khóc: “Chị Thảo ơi, có phải hôm này chị nhờ con trâu nó nhắc để em về gặp các bạn của chị?”… Rồi chuyến về thăm nhà Trần Thị Loan nữa: Trước đây chỉ nghe nói Loan ở thị xã Ninh Bình, đâu biết là ở đường nào, phố nào. Thế mà vào thị xã, chỉ hỏi thăm một người là họ sốt sắng dẫn đến tận ngõ luôn. Vào nhà đúng giờ mất điện, vậy mà sau khi thắp hương cho Loan, tự dưng đèn điện sáng choang. Cả nhà ngạc nhiên nói rằng mọi khi mất điện vào giờ này thì phải chờ đến đêm mới có…

Tôi đã được nghe những người quản lý ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn kể những câu chuyện tâm linh ở nghĩa trang mà họ trực tiếp chứng kiến. Tôi cũng đã được nghe nhiều gia đình liệt sĩ kể chuyện họ tìm được hài cốt con em nhờ sự hướng dẫn tài tình của các nhà ngoại cảm. Bản thân tôi trong quá trình đi tìm hiểu thực tế; sưu tập di ảnh, di vật, tài liệu… và gặp gỡ các nhân chứng để thực hiện bài viết này, cũng đã một lần được ứng nghiệm sự linh hiển của các liệt sĩ A69 ở Lèn Hà. Biết giải thích thế nào đây về những điều kỳ diệu ấy? Đành mượn lời một người dân ở bản Hà hôm nọ: “Những người chết trẻ vì dân, vì nước là rất thiêng, rất thiêng…”.

Lần theo danh sách Ban liên lạc bạn chiến đấu A69 khu vực Hà Nội, tôi còn được gặp nhiều nhân chứng lịch sử, được nghe nhiều câu chuyện cảm động của Lèn Hà bi tráng. Trong số ba cô gái tổng đài Trạm cơ vụ A69 may mắn thoát được trận bom oan nghiệt ngày 2-7-1972, chỉ có chị Nguyễn Thị Nghiêm sau năm 1975 là xin ra quân trở về với bản mường ở thôn Châu Dễ, xã Hợp Châu, huyện Kim Bôi (Hòa Bình). Đúng ra, hồi đó do chị là người dân tộc miền núi nên được đơn vị ưu tiên một suất đi học nghiệp vụ thông tin quân sự ở nước ngoài. Nhưng năm ấy cha mẹ Nghiêm già yếu, nếu chị đi học thì các em phải ở nhà, thế là chị xin nhường suất đi học cho người khác. Hết nuôi bố mẹ đẻ lại chăm bố mẹ chồng. Bây giờ các con khôn lớn trưởng thành ra thị xã công tác cùng với bố, chị vẫn bám ruộng vườn, ở nhà không ra phố. Cứ tưởng chị tự ti mặc cảm điều gì đó, không muốn giao du nơi ồn ào phố thị, nhưng mỗi khi “Hội A69” gọi là chị sốt sắng "khăn gói quả mướp" về Hà Nội ngay. Cuộc gặp mặt nào chị cũng tham dự, chuyến hành hương nào chị cũng tham gia đầy đủ…

Ngày ấy ở Trạm A69 có anh Nguyễn Huy Thái người Từ Sơn (Bắc Ninh), đẹp trai mà lắm tài vặt. Đàn giỏi, hát hay, một mình anh “song ca” cả hai giọng nam và nữ bài “Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây” chẳng khác gì nghe ca sĩ trung ương hát trên đài. Bao nhiêu cô gái có cảm tình với anh chàng Kinh Bắc hào hoa, thế mà anh thì lại âm thầm làm thơ tặng Nguyễn Thị Nghiêm, một người “nhất dáng nhì da”, nhưng trông lúc nào cũng… nghiêm như điều lệnh. Cái hôm hai bài thơ của Thái gửi cho Nghiêm, chẳng biết “rò rỉ” thế nào mà chỉ một loáng là cả trạm đã xôn xao như nội bộ có kẻ phản động. Ở chiến trường mà dám làm thơ tỏ tình thì kỷ luật là cái chắc! Quả nhiên, sau một loạt cuộc họp kiểm thảo "lên bờ xuống ruộng", Thái được lệnh điều động vào Trạm C20 ở Vĩnh Linh. Mới đây gặp anh, nghe tôi hỏi chuyện nọ, anh gật đầu xác nhận và còn đọc vanh vách hai bài thơ “tỏ tình” ấy. Thì ra đại loại chỉ thế này:

Anh với em hai miền quê xa lạ

Cùng đến đây bên dãy núi Trường Sơn

Nơi quanh năm gió thổi mây vờn

Trời đã sang xuân mà núi Lèn còn lạnh giá…

Thơ “trong sáng” thế, mà cái án kỷ luật thì thật nặng. Nhưng chưa đến mức xót xa như câu chuyện tình yêu của cô Vũ Thị Lan với một anh bên tổ kỹ thuật, cùng đồng hương Vũ Thư (Thái Bình). Lan sinh năm 1950, là người lớn tuổi nhất trong số mười ba chị em của trạm. Tuổi ấy, nếu không đi bộ đội thì đã chồng con tay bế tay bồng rồi. Nhưng đây là chiến trường, không thể linh động chiếu cố để ảnh hưởng đến tinh thần chung. Thế là anh “kỹ thuật” phải chuyển đi đơn vị khác. Sau trận bom ngày 2-7-1972, nhận được tin Lan hy sinh, anh làm đơn xin về lại A69, thay thế vị trí nhân viên trực tổng đài của Lan. Anh về lại A69 được hơn một tuần thì nhận được lá thư tháng trước anh gửi cho Lan, nay mới đến nơi. Nhiều hôm chị em bắt gặp anh lén ra gốc cây núc nác, ngồi đọc bức thư của chính mình gửi cho người yêu, đôi mắt đỏ hoe…

Nhắc lại chuyện cấm đoán một thời, Nguyễn Huy Thái nói rằng mỗi hoàn cảnh có cái lý chính đáng của nó. Giữa chiến trường ác liệt, tình yêu của người lính cũng phải chấp nhận sự hy sinh, thậm chí đôi khi là “oan nghiệt”. Hiểu thế nên đã từ lâu, Thái không oán giận gì các cán bộ của đơn vị ngày ấy nữa. Tôi tin lời anh!

Nói về tài vặt hay tài hoa và cả… đẹp trai, thì ở A69 còn có anh Phan Tất Thành cũng là một “ngôi sao” đáng kể. Sinh viên năm thứ ba trường Bưu điện trung ương, vào A69 được bầu làm bí thư chi đoàn, Phan Tất Thành vừa là thầy dạy hát, dạy đàn cho các hạt nhân văn nghệ; vừa là thầy dạy ba môn toán, lý và hóa cho lớp bổ túc văn hóa cấp ba của trạm. Ngày ấy đạn bom ác liệt, công việc khẩn trương vất vả thế, nhưng trạm vẫn tổ chức một lớp bổ túc văn hóa cấp ba rất nền nếp quy củ. Tháng sáu năm bảy hai, anh Thành bị thương trong một lần đi kiểm tra đường dây ở Tân Ấp. Điều trị ở Viện Bốn gần một tháng, vết thương trên đầu còn rỉ nước vàng khè, anh đã xin về đơn vị tiếp tục điều trị và công tác. Hôm xảy ra trận bom tàn khốc đầu tháng bảy, anh là người chui vào hầm bế thi thể từng liệt sĩ đưa ra ngoài. Lạ lùng thay, từ hôm đó vết thương anh khô hẳn, không rỉ nước vàng nữa. Sau chiến tranh, anh Thành chuyển ngành, công tác ở Hà Nội và hiện nay là trưởng Ban liên lạc bạn chiến đấu A69 ở khu vực Hà Nội.

Một ngày đầu xuân Kỷ Sửu vừa qua, tôi được đi cùng anh Thành, anh Thái, chị Vang, chị Thanh, chị Nghiêm… và một số cựu chiến binh “hội A69” về thăm Đại đội phó Nguyễn Văn Hựu ở xã Hải Minh, huyện Hải Hậu (Nam Định). Ngày ấy, ông Hựu trực tiếp phụ trách ở Trạm A69 nên là cán bộ đại đội gắn bó với A69 nhất, đặc biệt là những ngày cam go ác liệt sau trận bom mười ba đồng chí của trạm hy sinh. Đến nay, mọi người vẫn quý mến ông như người anh cả của hội. Dăm năm trước, ông đã dẫn đầu một “hội A69” về thăm lại Lèn Hà. Bấy giờ Lèn Hà vẫn hoang vu như hơn ba mươi năm trước, chưa có đường ô tô, miếu thờ và bia đá ghi danh mười ba liệt sĩ như ngày nay. Hồi đó, sự kiện bi tráng ngày 2-7-1972 ở Lèn Hà vẫn im lặng chìm khuất theo năm tháng giữa núi rừng trùng điệp…

Xuân này, “xê” phó Hựu sang tuổi bảy mươi, anh em từ Hà Nội về chúc thọ ông, mang theo những thông tin khiến ông mừng rơi nước mắt: Tết Kỷ Sửu vừa rồi, trung đoàn và thủ trưởng binh chủng vào chúc Tết nhân dân và cán bộ bản Hà, rất nhiều người dân vẫn hỏi thăm “chú Hựu hồi nớ”. Lèn Hà vừa được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình ra quyết định công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh và đang trình hồ sơ đề nghị Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia trong hệ thống di tích đường Hồ Chí Minh. Bộ tư lệnh Thông tin cũng đang xúc tiến hồ sơ đề nghị Nhà nước truy tặng tập thể mười ba liệt sĩ Trạm thông tin cơ vụ A69 ở Lèn Hà hy sinh ngày 2-7-1972 danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông nắm tay từng người, lắc lắc:

- Mỗi hoàn cảnh có cái lý của nó! Trước đây vì nhiều lý do nên chưa làm được, bây giờ Đảng, Nhà nước, nhân dân và đồng đội quan tâm như thế là tốt lắm, mừng lắm. Người chết thì đã tan vào đất đai cây cỏ lâu rồi. Người còn sống như anh em chúng mình thì cũng chẳng ai vào đó mà hưởng thêm lợi lộc gì. Nhưng A69 và Lèn Hà vẫn rất cần tuyên dương, rất cần xếp hạng cho con cháu mai sau gìn giữ…

“Mỗi hoàn cảnh có cái lý của nó…”. Tôi chợt nhận ra khi nhắc về những năm tháng Lèn Hà bi tráng, những người lính thông tin A69 của Trường Sơn năm xưa vẫn chung một tâm thức như nhau!

Hà Nội, Nguyên tiêu Kỷ Sửu 2009

MAI NAM THẮNG