 |
Đồng đội A69 về thăm gia đình liệt sĩ Chu Thị Mạnh ở xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ, tháng 4-1998. Ảnh: HỒNG THẾ |
Lèn Hà bi tráng (Kỳ 1)Lèn Hà bi tráng (Kỳ 2)
Lèn Hà bi tráng (Kỳ 3)
Kỳ 4: Chỉ xin cho người đã khuất…
“Người may mắn” thứ hai của Tiểu đội tổng đài A69 tôi tìm gặp được là chị Phạm Thị Vang, quê ở xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lư-Ninh Bình. Cũng giống như chị Thanh, năm 1971 chị Vang xung phong đi bộ đội lúc mới 17 tuổi, cùng khóa huấn luyện nghiệp vụ tổng đài tải ba ở Kép-Hà Bắc. Tốt nghiệp khóa huấn luyện sáu tháng, Vang là một trong số những học viên giỏi được chọn về trạm A10 của Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc đặt gần pháo đài Láng-Hà Nội. Ai cũng bảo số Vang thật sướng, đi bộ đội lại được đóng quân ở Thủ đô. Vậy mà hơn hai tháng sau, Vang viết đơn nằng nặc xin vào chiến trường. Tháng 4-1972 chị có mặt ở trạm A69…
Phạm Thị Vang thừa nhận chị thực sự là một người may mắn ở chiến trường, bởi không chỉ trận bom ngày 2-7-1972 mà còn rất nhiều lần chị suýt chết trong gang tấc. Ngay trong chuyến hành quân theo một chiếc ô tô vận tải của binh chủng chở khí tài kỹ thuật vào mặt trận, cả người, cả xe đã mấy lần bị bom vùi ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… thế mà tất cả vẫn nguyên vẹn vào tận Lèn Hà. Thời kỳ đóng quân trong nhà dân bản Hà, một hôm Vang được phân công ra ngã ba Thanh Lạng nhận thuốc men cho bộ phận quân y. Hơn năm cây số đường rừng mà dám đi một mình ban đêm để tránh máy bay Mỹ. Nhưng “chạy trời không khỏi nắng”, lúc trở về đến đỉnh dốc Bà Tôn thì máy bay đến thả pháo sáng, đất trời cây cỏ rõ mồn một như ban ngày. Nhìn trước ngó sau chỉ trơ trọi mỗi một mình một ba lô giữa quả đồi cũng trơ trọi đất đá đỏ bầm, hố bom nham nhở. Thế là cắm đầu cắm cổ chạy bạt mạng chí tử. Một ánh chớp lóe lên kèm theo một tiếng nổ như sét đánh ngang đầu, không hiểu sao lúc ấy Vang lại đủ sự sáng suốt để phân biệt đấy là tiếng rốc-két chứ không phải tiếng bom, nghĩa là địch nhằm bắn có mục tiêu hẳn hoi chứ không phải thả bom vu vơ hú họa như nhiều lần qua đây. Vậy thì phải bỏ đường chính, chạy vào vạt sim bên kia mé đồi. Lại một ánh chớp, không, một quầng lửa bùng lên trùm lấy Vang. Không kịp nghe tiếng nổ, không biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ biết sau đó Vang nhận ra mình đang nằm dưới lòng khe cạn, mồm mũi đầy đất đá. Xung quanh đã yên ắng trở lại. Vang rũ bụi, khoác ba lô thất thểu về bản. Bấm đèn pin chui vào căn hầm bán âm (nửa chìm nửa nổi để cơ động thuận tiện) thì một quả bom bi đã lọt qua mái lá, nổ đúng chỗ Vang vẫn thường nằm. Nếu đêm ấy Vang không đi lấy thuốc thì…
Chị Vang kể: Sau trận tập kích ác liệt ngày 2-7-1972, trạm A69 bị địch đánh phá nhiều hơn. Bấy giờ mặt trận Trị Thiên-Nam Lào, nhất là chiến dịch bảo vệ thành cổ Quảng Trị, đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Vì vậy, nhiệm vụ phục vụ chiến trường của trạm cũng hết sức nặng nề, căng thẳng; trong lúc quân số của trạm thiếu nghiêm trọng, lương thực và thực phẩm bị cháy sạch, quân tư trang cá nhân chẳng còn thứ gì. Còn nhớ, sáng hôm sau trận bom, anh Hựu xuống chân lèn nhặt nhạnh ôm lên một bọc quần áo nam nữ lẫn lộn, chiếc khô chiếc ướt, chiếc nào cũng nham nhở vết cháy, lỗ chỗ rách thủng. Kim chỉ không có, đành dùng lõi thép dây điện thoại xâu túm lại mà mặc. Chị em nhìn nhau xúng xính trong những bộ quần áo xâu buộc dúm dó mà xót xa cười ra nước mắt…
Việc tắm giặt cũng vô cùng nan giải. Nước giếng thì sợ có bom bi. Nước suối thì sợ địch rải chất độc hóa học. Sang bản xin nước nhà dân thì khá xa, lại không có thời gian… Giữa vòm hang có một bầu thạch nhũ, ngày ngày vẫn tí tách những giọt nước chắt ra từ đá núi. Chỗ ấy, xưa nay chị em vẫn đặt một thùng lương khô bằng sắt tây để hứng nước, vài hôm đầy thùng lại đổ đi. Bây giờ thì mọi sinh hoạt của ba cô gái, từ rửa mặt, đánh răng đến tắm giặt đều trông cậy vào thùng nước lúc nào cũng thum thủm mùi lá mục ấy. Cũng may đã chớm vào tháng ngâu nên nước từ “vú đá” rỏ nhiều hơn, mỗi ngày cũng được lưng lửng thùng, tiết kiệm dè sẻn thì tạm ổn. Khổ nhất là những ngày hành kinh, bây giờ tả lại chuyện tắm rửa, giặt giũ của chị em những ngày ấy, hẳn người nghe không thể nào tin nổi, không thể nào chịu nổi. Cũng như chuyện này liệu có ai tin nổi, chịu nổi không: Mùa ấy hang đá rất ẩm mốc, vì “ăn ở bẩn” nên có hôm rũ chăn để đắp, chị em phát hoảng khi thấy dòi bọ trong đống chăn bò ra…
Ba mươi bảy năm đã trôi qua, Phạm Thị Vang bây giờ đã nghỉ chế độ “hưu non” được hơn chục năm, hiện đang sống hạnh phúc cùng chồng con ở Hà Nội. Chồng chị cũng là một sĩ quan quân đội đã chuyển ngành. Các con đều thành đạt. Cách nay ba năm, trong một lần gặp mặt Ban liên lạc bạn chiến đấu A69 khu vực Hà Nội, thủ trưởng Binh chủng Thông tin liên lạc nói:
- Bây giờ các đồng chí có khó khăn gì, có nguyện vọng gì, xin cứ mạnh dạn đề xuất. Đảng ủy và Bộ tư lệnh sẽ phối hợp với các ngành chức năng nghiên cứu giải quyết trong điều kiện và khả năng cho phép.
Phạm Thị Vang thay mặt ba chị em còn lại của tổng đài trạm cơ vụ A69 sau trận bom hôm ấy, thưa:
- Chúng tôi may mắn được sống sót lành lặn thế này là hạnh phúc lắm rồi. Cuộc sống bây giờ cũng tạm ổn, không đến nỗi nào. Nhưng sự hy sinh của mười ba chiến sĩ trạm thông tin cơ vụ A69 trong trận bom ngày 2-7-1972 là một sự kiện vô cùng đau thương và anh dũng, một tổn thất vô cùng to lớn của đơn vị và các gia đình, một đóng góp thiêng liêng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, đề nghị cấp trên xem xét có hình thức tôn vinh xứng đáng. Hai là, cuộc sống của cha mẹ, anh em những người đã hy sinh, theo chúng tôi được biết thì đa số còn hết sức khó khăn. Thậm chí có những hoàn cảnh rất thương tâm. Đề nghị cấp trên có sự quan tâm đúng mức và biện pháp giúp đỡ thiết thực…
Ý kiến của chị Vang khiến nhiều bạn chiến đấu trong buổi gặp mặt hôm ấy rưng rưng xúc động nhớ lại những chuyến hành hương tìm về gia đình đồng đội đã khuất, do anh chị em tự tổ chức mấy năm gần đây. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, trạm A69 vẫn tiếp tục hoạt động một thời gian nữa để phục vụ cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước, nhưng thế hệ chống Mỹ cứu nước thì đã phân tán mỗi người một nơi. Đa số được ra quân và vất vả mưu sinh trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế đầy khó khăn của đất nước. Dăm năm gần đây, khi cuộc sống đã tạm ổn, mọi người chắp nối tập hợp nhau, lập Ban liên lạc bạn chiến đấu A69 và tổ chức đi thăm hỏi gia đình các đồng chí đã hy sinh. Nói là cuộc sống đã tạm ổn, nhưng việc huy động mỗi người dăm bảy trăm ngàn đồng để thuê ô-tô, làm lộ phí và mua quà cáp… là cả một vấn đề không nhỏ. Bởi vậy mỗi năm Ban liên lạc chỉ tổ chức được một chuyến đi. Mỗi chuyến chỉ đến được một hoặc hai gia đình…
Chuyến đi đầu tiên cách nay đã mười năm và gia đình đầu tiên ban liên lạc đến thăm là bố mẹ của Nguyễn Thị Lan Anh ở xã Thanh Cù, huyện Thanh Ba-Phú Thọ. Chọn gia đình Lan Anh là bởi một câu chuyện mọi người được chứng kiến ở ga Hàng Cỏ ngày họ lên tàu vào tuyến lửa, còn ám ảnh đến nay. Chuyện là: Trong số anh em được biên chế vào A69 đợt ấy, Lan Anh là người có bố cũng đang chiến đấu ở Khu Bốn. Không hiểu sao, khi con tàu chở Lan Anh và đồng đội từ từ khởi hành rời ga Hàng Cỏ, thì Lan Anh phát hiện ra bố mình đang khoác ba lô đứng trên sân ga. Cô nhoài người ra cửa sổ gọi rối rít nhưng không kịp nữa… Sau này qua thư từ, Lan Anh được biết: Nghe tin con gái “đi Bê”, tưởng sẽ vào sâu trong chiến trường miền Nam nên ông xin phép đơn vị ra gặp con. Ông không ngờ chuyến tàu đưa ông ra Bắc, vừa đến ga Hàng Cỏ thì cũng vừa lúc con tàu chở đơn vị của Lan Anh bắt đầu lăn bánh về Nam… Lần ấy, coi như Lan Anh đã được gặp bố, nhưng người bố thì chưa được gặp con và vĩnh viễn không bao giờ ông được gặp lại người con gái thân yêu mà ngày ông lên đường vào mặt trận, nó hãy còn là một con bé tóc để chỏm. Đau buồn, già yếu, bệnh tật… nhưng ông bà vẫn sống qua tuổi tám mươi với một niềm hy vọng mơ hồ về một điều gì đó cũng rất mơ hồ không sao giải thích được. Cho đến ngày Vang, Thanh, Nghiêm và các bạn A69 của liệt sĩ Lan Anh sà vào lòng ông bà thảng thốt gọi “bố ơi, mẹ ơi, các con đã về đây”, thì ông bà mới hiểu rằng điều mà ông bà chờ đợi chính là ngày hôm nay đây…
Lần về thăm gia đình anh Trần Văn Xây ở xã Ngô Quyền, huyện Thanh Ba (Phú Thọ) cũng thật thương tâm. Ngôi nhà tranh tường đất nham nhở. Chiếc giường vừa làm chỗ nằm ngủ của ông cháu, vừa làm chỗ tiếp khách, ọp ẹp đến nỗi mọi người không dám ngồi vì sợ gãy. Dưới gầm giường là một bao tải ngô gà mổ, chuột tha vương vãi. Đầu giường căng sợi dây mây sát vách đất, trên dây vắt mấy bộ quần áo nhàu nhĩ. “Gia tài” đáng kể của hai ông cháu chỉ có thế! Bà mẹ anh Xây vừa mất năm trước. Cụ ông đã 87 tuổi vẫn phải cuốc đất làm vườn. Vợ anh tái giá sau ngày anh hy sinh được hai năm, để lại cho ông bà đứa cháu nội mới hơn hai tuổi. Lại nhớ hôm nhận được tin vợ sinh con trai, anh Xây hét vang cả hang Hà: “Tao có thằng cu chống gậy rồi!”. Cái thằng cu ấy, năm mọi người lên thăm đã hai mươi bảy tuổi mà loắt choắt như thằng bé lên mười, hậu quả của những trận ốm dặt dẹo và suy dinh dưỡng từ bé. Mọi người bàn nhau giúp cháu một nghề nghiệp gì đó, nhưng trông nó gầy bé thế kia, lại thất học nữa, biết làm nghề gì cho hợp?
(Còn nữa)
MAI NAM THẮNG
Kỳ sau: Tâm thức Trường Sơn...