“Tổng cục Chính trị hoàn toàn nhất trí và ủng hộ ý kiến của BTL Thông tin liên lạc về việc đề nghị truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho tập thể 13 liệt sĩ là những cán bộ, chiến sĩ Trạm cơ vụ thông tin A69 đã anh dũng hy sinh ngày 2-7-1972 ở Lèn Hà. Họ là những tấm gương cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, rất xứng đáng được tôn vinh”...

Đó là phát biểu của Trung tướng Nguyễn Tuấn Dũng, Phó chủ nhiệm TCCT, tại lễ kỷ niệm 40 năm Bộ đội Thông tin liên lạc làm theo thư Bác Hồ, tổ chức tại Hà Nội ngày 4-2-2009. Bài viết sau đây chỉ giới thiệu được phần nào về sự kiện Lèn Hà bi tráng.

Kỳ 1: Bây giờ bia đá hang sâu…

Một ngày cuối năm 2008, đoàn nhà văn quân đội chúng tôi, được sự giúp đỡ của Đoàn thông tin M34, đã thực hiện một cuộc hành hương trở về Lèn Hà thuộc xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, một địa danh lịch sử, một trọng điểm ác liệt trong những năm tháng hào hùng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”…

Lèn Hà là một ngọn núi đá nằm về phía tây đường Hồ Chí Minh, cách ngã ba Thanh Lạng chừng 3km. Từ đây theo đường chiến lược 15 trở ra Bắc hơn năm chục km là ngã ba Đồng Lộc nổi tiếng, tiếp nữa là Truông Bồn cũng là một túi bom ác liệt hồi chiến tranh. Còn từ đây theo đường chiến lược 12A ngược hướng tây là các địa danh nổi tiếng: Ca Tang, La Trọng, Khe Dinh, Khe Ve, Bãi Hà, Cổng Trời, Cha Lo; thẳng hướng nam là đường 20 Quyết Thắng, hang Tám Cô, đèo Mụ Giạ, đèo Đá Đẽo, phà Xuân Sơn… Tất cả đều là những trọng điểm ác liệt của tuyến đường Trường Sơn huyền thoại qua đất lửa Quảng Bình những năm đánh Mỹ.

Cán bộ, chiến sĩ Trạm A69, tháng 3-1972. Ảnh: HỒNG THẾ

Giữa lưng chừng núi đá Lèn Hà có một cái hang tự nhiên rộng gần hai trăm mét vuông, gọi là hang Hà. Khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc, hang Hà được chọn đặt trạm tổng đài cơ vụ A69 của tuyến thông tin dây trần chiến lược Bắc Nam, thuộc Đoàn thông tin M34, có nhiệm vụ bảo đảm thông tin từ Hà Nội đến các mặt trận Trị Thiên, Nam Lào và phục vụ trực tiếp các đơn vị chiến đấu trên địa bàn, như: Đoàn phòng không B67 ở nam Khu Bốn, căn cứ hải quân ở Cửa Gianh-Ba Đồn, hậu cứ Đoàn 559 ở Thanh Lạng, đồn biên phòng Cha Lo, Quân y viện 4… Ngoài ra, hang Hà còn là kho dự trữ trang bị kỹ thuật phục vụ chiến trường của Binh chủng Thông tin liên lạc. Trạm tổng đài cơ vụ A69 là một trong ba đơn vị cấp trung đội của Đại đội 9. Quân số của trạm lúc cao nhất là 33 cán bộ, chiến sĩ; thuộc nhiều bộ phận, như: Tổng đài tải ba, đường dây, nạp nguồn… Trong đó, riêng tiểu đội tổng đài được biên chế 13 nữ chiến sĩ.

Kể sao xiết những khó khăn gian khổ của bộ đội Trường Sơn những năm đánh Mỹ! Với các chiến sĩ Trạm thông tin A69, ngoài nắng mưa, muỗi vắt, bệnh tật, thiếu thốn, đạn bom của đủ các loại máy bay… họ còn phải đối mặt với các loại biệt kích, thám báo. Nhiều lần, anh em đã phát hiện được các loại thiết bị nghe trộm của địch nối vào đường dây và đã khắc phục kịp thời, bảo đảm thông tin bí mật, an toàn tuyệt đối. Vượt lên muôn vàn khó khăn nguy hiểm, đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững huyết mạch thông tin phục vụ chiến trường. Trạm đã được Nhà nước tặng thưởng hai Huân chương Chiến công; được các đồng chí: Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Phó tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, Phó chủ nhiệm TCCT Lê Quang Đạo, Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn Đồng Sĩ Nguyên, Chính ủy Binh chủng TTLL Lê Cừ… trực tiếp gọi điện thăm hỏi và khen ngợi sau nhiều chiến dịch lớn.

Ngày 2-7-1972, vào lúc 13 giờ 25 phút, máy bay Mỹ mở một trận tập kích bất ngờ và hết sức khốc liệt bằng các loại hỏa tiễn, bom phát quang, na-pan, bom bi… vào khu vực Trạm A69. Mười ba cán bộ, chiến sĩ của trạm, trong đó có mười nữ chiến sĩ tổng đài tải ba, đã anh dũng hy sinh. Hầu hết doanh trại bị đốt cháy, trạm máy trên hang đá bị hư hỏng nặng, mạng cáp nhập đài và hơn một nghìn rưỡi mét dây các tuyến xung quanh khu vực trạm bị phá hủy hoàn toàn. Vượt lên đau thương mất mát, các chiến sĩ còn lại đã phối hợp với dân quân địa phương khẩn trương quy tập liệt sĩ, cấp cứu thương binh và khắc phục đường dây. Chỉ hơn một giờ sau, thông tin được nối thông suốt với Tổng hành dinh Bộ Quốc phòng ở Thủ đô Hà Nội. Từ đó, 3 nữ chiến sĩ tổng đài còn lại đã thay nhau trực chiến, giữ vững thông tin liên lạc suốt ngày đêm. Hơn nửa tháng sau mới có lực lượng bổ sung…

Lần này trở lại Lèn Hà, chúng tôi chọn hành trình vượt “đường Đồng Lộc, đường Khe Giao… Hồng Lam, Linh Cảm…” theo dấu chân của các chị, các anh “áo xanh, túi chéo xanh vào Trường Sơn” mấy mươi năm trước. Ngã ba Thanh Lạng đây rồi! Từ đây vượt qua dốc Bà Tôn, xuống bản Hà, lội qua khe nước nhỏ là sang chân núi Lèn Hà. Lão dân quân Phạm Văn Nậy, 72 tuổi, người nhỏ bé nhưng sải những bước chân khá dài và vững chãi, vượt lên dẫn đường cho chúng tôi, giọng sang sảng:

- Chỗ vạt sắn bên tê, hồi trước là dãy nhà ăn, nhà nghỉ, hội trường… của bộ đội lèn đó. Hồi nớ cây cối um tùm chớ không trống trải như bây chừ...

Tôi hơi ngạc nhiên bởi mấy chữ “bộ đội lèn” của lão đồng chí dân quân địa phương, nguyên xã đội trưởng thời A69, định hỏi lại nhưng lập tức bị cái màu tím của ngọn đồi lúp xúp sim mua cuốn hút. Mùa này không có hoa sim, nhưng những bụi mua bạt ngàn vẫn hồn nhiên tím ngát. Chiều đang xuống hòa cùng sắc mua nao nao khiến lòng người bùi ngùi khôn tả trước màu hoa của tuổi yêu. Các cô gái của tổng đài A69 ngày ấy đều trên dưới hai mươi tuổi, chưa ai lập gia đình, hẳn cũng nao nao bùi ngùi mỗi khi qua ngọn đồi này để sang bản Hà, để ra Thanh Lạng. Những đôi môi con gái hẳn cũng từng nhuộm tím bởi trái sim mùa hạ? Ai đã lên hang vào phiên trực với chùm hoa tím trên tay? Ai nhớ về Phú Thọ, Lạng Sơn, Ninh Bình… bởi những ngọn đồi quê nhà cũng bạt ngàn hoa tím?...

Dưới chân ngọn đồi ríu rít sim mua là một khe nước trong vắt, nhìn rõ từng viên cuội trắng và những chú cá nhỏ xíu tung tăng. Ngược con suối này chừng hai cây số là trạm thủy điện của “bộ đội lèn” xây dựng để nạp nguồn ắc-qui cho trạm. Con suối còn là nơi cung cấp nước sinh hoạt, tăng gia sản xuất và là “kho” dự trữ chất tươi cho đơn vị. Sau này, trạm xây được giếng lấy nước ăn uống, tắm giặt; lại đào cả ao thả cá nữa, nhưng nhiều anh vẫn thích ra tắm suối để mò cua bắt cá, nhiều o vẫn thích ra suối gội đầu hóng gió để chí chóe đùa nghịch với nhau trong những trưa hè yên ắng đạn bom. Nghe nói sau trận bom tang thương đầu tháng Bảy năm 1972, chỉ huy xê chín (C9) bị cấp trên kiểm điểm vì cái ao thả cá kia chính là mục tiêu chỉ điểm cho máy bay Mỹ. Làm gì có chuyện ấy? Hồi đó biệt kích thám báo đã móc được máy nghe trộm vào đường dây, máy bay trinh sát soi mói suốt đêm ngày, pháo sáng như đuốc nhà trời rừng rực thâu đêm… thì làm gì mà chúng chẳng biết có trạm thông tin ở hang Hà. Có điều, lần nào chúng mò vô cũng bị phòng không tầm thấp, tầm cao của bộ đội và dân quân xua táo tác…

Đang lao xao bàn tán những điều trên đây, tất cả chợt im bặt khi hiện ra trước mắt là một ngôi miếu nhỏ tọa lạc trên một khu đất bằng phẳng. Đây chính là vị trí nền ngôi nhà tiểu đội tổng đài A69. Trưa hôm ấy, ba người đang trực máy trên hang, mười người sau bữa cơm trưa đang nghỉ ngơi chuẩn bị cho những ca trực tiếp theo… 33 năm sau buổi trưa oan nghiệt ấy, một ngôi miếu nhỏ đã được thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn thông tin M34 hôm nay dựng lên, đặt 13 bát hương tưởng nhớ những người chị, người anh thế hệ trước đã góp phần làm rạng danh truyền thống đơn vị anh hùng. Phía trước ngôi miếu chừng hai chục mét là cái giếng um tùm những cây trinh nữ. Không hiểu sao xung quanh rặt lau lách cỏ dại, chỉ giếng nước là tuyền cây trinh nữ? Chếch bên trái dăm chục mét là cái ao thả cá của Trạm A69 ngày xưa, bây giờ là thửa ruộng phất phơ mấy ngọn lúa chét, lọt thỏm giữa một vùng lau sậy. Cây sung oam ra giữa ruộng xoắn xuýt lúc lỉu những quả là quả. Chúng tôi kính cẩn bày hương hoa lên bệ thờ. Ngoảnh lại, mấy chú bé chăn trâu dưới chân đồi Hà ban nãy đi theo cũng đang cung kính xếp hàng cúi đầu im lặng. Dưới chân các chú là một bó cọc do các chú tự nguyện mang đến “biếu” chúng tôi làm gậy để leo dốc lên hang. Quả là một món quà hết sức thiết thực, bởi đường lên hang Hà dựng đứng, gập ghềnh đá lưỡi mèo và lùm xùm dây leo, lá mục. Nghe nói ngày xưa đường lên hang cũng rậm rạp thế này để ngụy trang che mắt địch, nhưng hồi đó lắm cây to nên không nhiều dây leo lùm xùm vấn vít, “bộ đội lèn” lên xuống cứ thoăn thoắt. Chắc thời chiến “khó khăn nào cũng vượt qua” dễ dàng như thế?

Mất chừng hai mươi phút mới lên đến hang Hà. Một vòm đá khổng lồ mở ra trước mắt chúng tôi. Những bệ bê-tông rải rác đó đây, vài sợi dây điện còn vương trên những vách đá cao, mấy ổ sứ thít vào thân cổ thụ bằng những sợi dây thép hằn dấu quanh thân cây… là những gì còn lại của Trạm cơ vụ A69 ngày nào. Giữa lòng hang là một bệ đá gra-nit nguyên khối được mài xẻ khá tinh xảo, khắc tên 13 liệt sĩ của trạm hy sinh ngày 2-7-1972. Bia danh này cũng mới được Đoàn M34 xây dựng cách nay hai năm. Bóng chiều nhập nhoạng cánh dơi. Mấy ngọn nến lung linh. Khói hương vấn vít vòm hang… Tôi, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, nhà văn Nguyễn Thế Hùng… không ai bảo ai, đều cùng quỳ xuống bên tấm bia đá nhẩm từng cái tên mới lần đầu được nghe nhưng sao thân thương xa xót như những người thân yêu ruột thịt. Nguyễn Hữu Quý khe khẽ thốt lên: “Trẻ quá, người nhiều tuổi nhất mới hăm hai tuổi. Có hai cô cùng sinh năm 1956 với mình, lúc hy sinh mới qua tuổi mười sáu”…

(Còn nữa)

MAI NAM THẮNG

Kỳ sau: Thương nhớ "bộ đội Lèn"