 |
Ông Đỗ Đình Thiện |
QĐND Online - Trong cách mạng tháng 8, nhất là trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trí thức Việt Nam yêu nước đã có nhiều đóng góp quan trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn. Có những nhân sỹ, trí thức nổi tiếng cống hiến cho cách mạng được sử sách ghi danh như: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Vũ Đình Hòe, Dương Đức Hiền, Phạm Ngọc Thạch, …Trong số những nhân sỹ trí thức yêu nước tiêu biểu thời kỳ này có vợ chồng trí thức, đại tư sản Đỗ Đình Thiện và Trịnh Thị Điền. Những hoạt động và đóng góp tài chính của ông bà có liên quan đến sự kiện thành lập ngành Tài chính Việt Nam, đến sự ra đời của đồng bạc tài chính – đồng bạc cụ Hồ… Đồn điền Chi nê của gia đình ông bà là một trong những địa điểm được Chính phủ cách mạng lựa chọn đặt nhà máy in tiền trong những ngày đầu khi chính quyền mới được thành lập.
Từ trí thức, tiểu thương yêu nước…
Thời niên thiếu của Đỗ Đình Thiện gặp khá nhiều khó khăn. Ông sinh năm 1904, là con út trong một gia đình viên chức, quê ở xã Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội. Mồ côi cha từ lúc 3 tuổi, ông được mẹ là bà Trần Thị Lan, một người con gái nông thôn nhưng sớm ra làm kinh doanh gây dựng được một cơ sở kinh tế vững chắc bằng nghề buôn bán lụa, nuôi ăn học. Là một trí thức tiến bộ, Đỗ Đình Thiện sớm giác ngộ và có lòng yêu nước sâu sắc. Thời học sinh, ông học ở trường hàng Vôi, nhưng vì tham gia phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh nên ông bị đuổi học. Sau đó ông phải đổi khai sinh, xuống Nam Định học và tốt nghiệp trung học phổ thông ở đó. Từ nhỏ, ông đã nuôi chí du học để mở mang tri thức, nhưng mẹ ông không muốn để người con út xa nhà, nên đã nghĩ ra mẹo hỏi vợ để cầm chân ông. Dù đã coi mặt 3,4 người nhưng ông Thiện đều không ưng. Về sau, gia đình phải nhờ anh em ông Cát Thành, Cát Tường - thành viên phong trào “Đông Kinh Nghĩa Thục” làm mai mối. Ông được họ giới thiệu cho bà Trịnh Thị Điền. Hai người gặp gỡ, ưng thuận rồi làm lễ hỏi. Nhưng vốn nuôi chí lớn, ông không muốn vì thế mà thay đổi kế hoạch đi du học. Năm 1927, Đỗ Đình Thiện quyết định sang học ở Pháp; khi ấy bà Điền vừa tròn 16 tuổi, còn ông mới bước sang tuổi 23.
Ở Pháp, ông Thiện là sinh viên trường Đại học Canh nông(Toulouse), vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, rồi vào ĐCS Pháp năm 1928. Ngày 7-10-1931, ông bị cảnh sát Pháp bắt tại nhà ga Matablan(Toulouse) khi giao truyền đơn cách mạng cho những binh sỹ người Việt Nam đang trên đường hồi hương. Trong quá trình thẩm vấn, ông đã nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, cương quyết không khai các đồng chí trong tổ chức Đảng. Ngay cả khi bị đưa ra xử án, Đỗ Đình Thiện đã tận dụng thời cơ này để tuyên truyền Chủ nghĩa Cộng sản, lên án chế độ thực dân Pháp. Tòa án Toulouse phạt ông 4 tháng tù giam và trục xuất về nước đầu năm 1932. Ở trong nước, suốt những năm 1932 – 1945, ông Đỗ Đình Thiện tiếp tục tham gia các hoạt động yêu nước như phong trào Mặt trận bình dân, ủng hộ tiền và hoạt động cho báo Lao Động(Le Travail), tuyên truyền vận động người của Đảng vào Viện dân biểu.
Tuổi trẻ ông Thiện sớm đã gặp nhiều sóng gió vất vả, tuổi thơ của bà Trần Thị Điền cũng không hề dễ dàng. Bà mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên 4, ở với người anh cùng cha khác mẹ. Cuộc sống vất vả đã biến bà thành một con người trầm tư, sống nội tâm và đầy nghị lực. Sau khi làm lễ hỏi, trong khi ông Thiện du học ở Pháp thì bà Điền ở trong nước, qua sự giới thiệu của cậu em họ là Ngô Đình Mẫn, bắt đầu tham gia hoạt động ở chi bộ phố Huế của Đảng Tân Việt. Đầu năm 1930, sau khi 3 Đảng hợp nhất, chủ trương tăng cường gây dựng cơ sở ở Hải Phòng – Hòn Gai. Đây là nơi tập trung nhiều công nhân. Lúc này, bà quyết định thoát ly gia đình xuống hoạt động trong tổ chức của Đảng Cộng Sản Đông Dương ở Hải Phòng. Bà để lại cho một người anh họ một lá thư tỏ ý chán đời muốn đi tu.
Tại Hải Phòng, bà bắt liên lạc với ông Nguyễn Tạo, là người cùng hoạt động ở chi bộ phố Huế trước đây. Nhóm hoạt động của bà còn có ông Chức, ông Sáng và 2,3 công nhân in có nhiệm vụ in tài liệu, làm giấy thuế thân và căn cước giả để các đồng chí đi hoạt động. Để có bình phong tốt, bà Điền bán sợi dây chuyền 2 chỉ vàng để mở quán cơm, làm địa chỉ liên lạc vận động công nhân. Bà cũng thường chuyển tài liệu cách mạng về Hà Nội, Hòn Gai cho các đồng chí của mình. Vừa hoạt động, bản thân bà còn phải lo tránh mặt người quen để khỏi lộ hành tung đi tu giả. Hoạt động được một thời gian, bà bị một tên phản bội chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt và giam bà ở Sở cẩm Hải Phòng, sau giải về Sở mật thám Hà Nội. Đoạn đời hoạt động trước đây đã nhiều cơ cực, thì đòn tù của Pháp còn kinh hãi đến mức khó có thể tưởng tượng nổi. Nhưng cũng nhờ thời gian ở tù mà bà Điền làm quen với các nhà cách mạng vừa bị bắt ở Thượng Hải về như Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du…Đồng chí Lê Duẩn cũng gặp ở trong nhà lao và sau này đã có lần nói với con gái bà Điền: “Mẹ cháu tốt lắm, ở trong tù mẹ cháu còn nhường cơm cho chú đấy”.
 |
Bà Trịnh Thị Điền |
Cuối năm 1931, người con gái 21 tuổi Trịnh Thị Điền đã quyết tuyệt thực một tuần liền để phản đối việc tra tấn dã man và ngược đãi phụ nữ của nhà tù. Sợ bà chết, thực dân Pháp phải đưa bà ra điều trị ở nhà thương Phủ Doãn và sau đó phải trả tự do cho bà. Sau 6 tháng giam giữ, tra tấn dã man nhưng kẻ thù cũng không khai thác được gì ở người phụ nữ này. Ra tù bà Điền lại tiếp tục liên lạc, tiếp tế cho các đồng chí bị tù và đã gửi 2 lưỡi cưa sắt bằng nửa ngón tay út nhét trong đôi dép dừa để giúp các đồng chí Nguyễn Tạo, Nguyễn Lương Bằng cùng một số đồng chí khác vượt ngục tại nhà thương Phủ Doãn trong đêm Noel 1931…
….Trở thành đại tư sản yêu nước
Khi ông Thiện bị trục xuất về nước và bà Điền ra khỏi nhà tù, thủy chung với lời ước hẹn năm xưa, họ làm đám cưới. Do nằm trong diện tình nghi của thực dân cho nên hai ông bà bị kiểm soát gắt gao, nhà cửa thường xuyên bị khám xét, không thể trực tiếp hoạt động các mạng như trước. Ông bà quyết định chuyển sang làm kinh tế, trước hết là để nuôi gia đình và sau đó để chờ thời cơ sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí của mình hoạt động. Bằng khả năng làm kinh tế thiên bẩm, ông bà mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi tậu ruộng đất, dựng nhà máy, đồn điền. Đến đầu những năm 1940 thì ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà Nội biết tiếng và kính nể.
Là một người nhiệt thành yêu nước, khi có điều kiện, ông bà luôn tìm cách ủng hộ và giúp đỡ cách mạng. Năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng vượt ngục ở nhà tù Sơn La, đến bắt liên lạc ngay tại nhà riêng của ông bà Thiện ở 54 Hàng Gai, được vợ chồng ông giúp cho 3 vạn đồng Đông Dương. Sau này đến năm 1972, trong một lần tiếp bà Điền tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh có nói: “Khi chúng tôi nhận được số tiền 3 vạn đồng chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn 24 đồng”. Đầu năm 1945, ông bà Thiện lại nhờ ông Vũ Đình Huỳnh chuyển tới ông Nguyễn Lương Bằng 10 vạn đồng Đông Dương nữa. Ông Nguyễn Tạo cũng ghi nhận: “Cuối tháng 12 năm 1943, tôi vượt ngục ở Hỏa Lò, đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc với đồng chí Nguyễn Thụy Nhân giúp đỡ tôi. Năm 1943, tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội, đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc, cho tôi 2 vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng”.
Khi đã trở thành nhà tư sản nổi tiếng giàu có ở Hà Nội vào đầu những năm 1940, thì gia đình ông càng có điều kiện hơn để hoạt động và đóng góp về tài chính cho Đảng. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai một thời trở thành “nhà khách” của Chính phủ. Các phái đoàn Nam Bộ, Phụ nữ Nam Bộ…đều qua đây nghỉ ngơi, ăn uống, may quần áo. Bác Hồ cũng đã mời cơm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại đây. Bà Điền còn được giao tổ chức tiệc ở phố Nguyễn Du để tiếp các tướng Tiêu Văn, Lư Hán…của đội quân Tưởng.
Hai ngày sau độc lập, Chính phủ ban hành sắc lệnh đặt ra Quỹ Độc lập nhằm động viên sức hy sinh, phấn đấu của đồng bào toàn quốc. Với kiến thức kinh tế sâu rộng, ông Đỗ Đình Thiện được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, gia đình ông Đỗ Đình Thiện đã đóng góp vào quỹ độc lập 10 vạn đồng Đông Dương(trị giá 4kg vàng thời điểm đó); đóng góp 100 lạng vàng trong Tuần lễ vàng trong khi cả nước mới quyên góp được 300 lạng. Bên cạnh đó, ông còn mua bức tranh chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sỹ Nguyễn Sáng vẽ với giá 1 triệu đồng Đông Dương rồi tặng cho Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Nội, biến cuộc đấu giá thành một đám rước chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh về treo ở trụ sở ủy ban. Sự kiện đó đã cổ vũ rất lớn lòng tin yêu của nhân dân đối với lãnh tụ.
Giữa năm 1946, ông Đỗ Đình Thiện được vinh dự thực hiện sứ mệnh cao cả trong sự nghiệp cách mạng của mình, khi ông là vị thư ký riêng tháp tùng Bác trong chuyến đi ngoại giao đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Pháp trong dịp hội nghị Fontainebleau và ký tạm ước ngày 14-9-1946. Tại sân bay Gia Lâm, mẹ ông đã không cầm được nước mắt bởi cụ hiểu tầm quan trọng cũng như những nguy hiểm có thể đến trong chuyến đi này. Và trong thời gian ở Pháp, khi tháp tùng Bác đi Nooc-măng-đi cùng với Sanh-ta-ni, ông đã bị tai nạn ô tô rất nặng, nhưng may mắn thoát chết. Về vụ tai nạn này, một số tờ báo Pháp lúc đó đã đặt dấu hỏi: “Phải chăng đây là một vụ mưu sát trượt Chủ tịch Hồ Chí Minh?”.
Từ sau ngày thực dân Pháp nổ súng gây hấn chiếm Sài Gòn – Gia Định, mở rộng chiến tranh ra các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ, đã xuất hiện phong trào Nam tiến hướng về miền Nam, chi viện sức người, sức của cho cuộc chiến đấu của quân và dân ta. Chính trong thời gian này, đồn điền Chi nê(xã Cố Nghĩa – Lạc Thủy – Hòa Bình) của ông bà Đỗ Đình Thiện(mua lại từ ông Bô – ren, tỷ phú người Pháp với giá 2000 lượng vàng) trở thành một địa chỉ cho một số đơn vị giải phóng quân trên đường vào Nam đánh giặc. Hồi ức về những ngày trú quân, huấn luyện tại khu vực Chợ Bến và đồn điền Chi nê của các đoàn quân Nam tiến còn được lưu lại trong các cuốn sách Phong trào Nam Tiến, Chi đội vi dân, do NXB Quân đội Nhân dân ấn hành.
Khoảng thời gian cuối năm 1945, khi dừng chân luyện tập, tổ chức lại đơn vị tại khu vực Nho Quan, một số chi đội giải phóng quân Nam tiến đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ về lương thực, thực phẩm từ đồn điền của gia đình ông Đỗ Đình Thiện, như chi đội Vi Dân – trước Cách mạng tháng 8 là đội công nhân xung phong thành Hoàng Diệu, và tiếp đến là chi đội Quang Trung – một đơn vị của Việt Nam giải phóng quân từng tham gia đánh quân Nhật từ ngày đầu khởi nghĩa ở Thái Nguyên... Không những thế, đồn điền Chi nê còn là cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang chiến khu II. Riêng vụ lúa thu 1946 – 1947, ông bà Thiện đã ủng hộ Vệ quốc đoàn Chiến khu II 200 tấn thóc để nuôi quân.
Trước nghĩa cử đó, khu trưởng Hoàng Sâm và chính trị viên Lê Hiến Mai đã viết thư cảm ơn, có đoạn: “Toàn thể bộ đội khu hai rất cảm động được Ngài ủng hộ hai vụ lúa thu trong quỹ đồn điền năm 46 và 47…Chúng tôi xin thay mặt toàn thể bộ đội, trân trọng gửi tới Ngài lời cảm ơn. Với lòng tha thiết của Ngài trước công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội Khu hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch để xứng đáng với sự nhiệt thành của Ngài đã dành cho”.
Không chỉ cung cấp lương thực, thực phẩm, nơi ăn ở, luyện tập, đồn điền Chi nê còn là “binh trạm” cho các đơn vị giải phóng quân, vệ quốc đoàn, “trạm giao liên” nơi dừng chân của nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.
Nguyễn Đức Tiến
(còn nữa)