Quân số của lực lượng Quốc dân đảng tại khu Thập Vạn Đại Sơn có hơn 3 trung đoàn, không kể các dân đoàn hương (một tổ chức vũ trang ở thôn xã của chính quyền Quốc dân đảng), và lực lượng vũ trang riêng của bọn địa chủ. Khi được tin bộ đội Việt Nam đã vượt qua dãy Thập Vạn Đại Sơn, binh lính quốc dân đảng đã rút bỏ hàng loạt vị trí ở hai huyện Khâm Châu và Phòng Thành, co về giữ các vị trí lớn ở Nà Lường, Phòng Thành, Đông Hưng và một số nơi khác.

Sau khi nghiên cứu, cân nhắc tình hình cụ thể, Bộ Tư lệnh quyết định tiến công Trúc Sơn, một thị trấn gần Đông Hưng do bốn đại đội địch đóng giữ. Từ Trúc Sơn có đường thủy thông ra biển và đường bộ đến Đông Hưng, Phòng Thành.

Đêm 5-7-1949, quân ta từ 3 mặt nổ súng tiến công Trúc Sơn. Địch cố thủ trong các lô cốt chống cự quyết liệt. Sau 5 ngày đêm bao vây, diệt viện, quân ta phải rút khỏi Trúc Sơn, nhưng đã tạo ra uy thế của bộ đội ta, góp phần cùng Giải phóng quân Trung Quốc xốc tới giải phóng 3 hương (xã) ở xung quanh Phòng Thành.

Từ trái qua phải: Các đồng chí Nam Long, Biên Cương, Quyến, Lê Quảng Ba, Mạnh Hùng, Đỗ Trình. Ảnh chụp trước khi lên đường viễn chinh Thập Vạn Đại Sơn. Ảnh tư liệu

Sau trận Trúc Sơn, một bộ phận quân ta quay về hướng Phù Lủng làm công tác vận động quần chúng. Ngày 12-7, một tiểu đoàn giải phóng quân Trung Quốc tập kích tiêu diệt quân Quốc dân đảng đóng trên các ngọn đồi xung quanh thị trấn Trúc Sơn, thu toàn bộ vũ khí. Hoảng sợ, địch bỏ Trúc Sơn, rút về Đông Hưng. Tiếp đó, chúng bỏ Nà Lường rút về Phòng Thành, vùng giải phóng tại khu Thập Vạn Đại Sơn được mở rộng. Chính quyền cấp huyện đầu tiên được thành lập ở Nà Lường. Quần chúng nhân dân hân hoan chào đón bộ đội Việt Nam.

Sau một thời gian củng cố, quân ta tiếp tục tấn công địch ở Nà Số, bức chúng rút khỏi Vòng Chúc. Trong thời gian này, quân ta đánh một trận “tao ngộ chiến” ở Mào Lẻng, diệt một số tên. Đầu tháng 8-1949, trên đường hành quân từ Nà Số đi Khâm Châu, bộ đội lại gặp địch. Hai bên kịch chiến tại núi Quan Đường, phía Nam của Nam Ninh. Địch núng thế, một số tên bị tiêu diệt, số khác đầu hàng. Trận thắng tại Quan Đường gây thêm uy tín, thanh thế cho bộ đội Việt Nam. Nhân dân địa phương Trung Quốc phấn khởi, đem gạo thịt, quà bánh đến úy lạo.

Giữa tháng 8-1949, bộ đội ta phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc phục kích địch tại On Mộc, trên đường Tai Chi đi Khâm Châu. Cuối tháng 8-1949, phối hợp với một đơn vị du kích tập trung, ta diệt và bắt 100 phỉ, có cả tên chỉ huy. Trận này đã tạo được tiếng vang lớn.

Cuối tháng 9-1949, khi cơ quan lãnh đạo khu Thập Vạn Đại Sơn đã liên lạc được với đại quân Trung Quốc, bộ đội ta được lệnh rút về nước. Ta để lại một đại đội tiếp tục phối hợp làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở và đánh địch ở vùng biên giới giữa hai tỉnh Quảng Đông và Hải Ninh.

Hơn bốn tháng hành quân chiến đấu trong những điều kiện vô cùng gian nan, thiếu thốn, lúc tập trung, khi phân tán gây cơ sở, bộ đội ta đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang. Bằng hành động thực tế, hy sinh quên mình, bộ đội Việt Nam đã góp phần cùng Giải phóng quân Trung Quốc và du kích khu Thập Vạn Đại Sơn tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng và đi tới nối liền căn cứ địa trong khu Thập Vạn Đại Sơn. Cụ thể, bộ đội ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một trung đoàn Quốc dân đảng, bức rút địch và giải phóng 10 thị trấn, phố, làng lớn, nhỏ thuộc huyện Phòng Thành: Phù Lủng, Nà Số, Nà Thín, Nà Lường, Giang Bình, Síu Tổng, Đồng Trống, Vòng Trúc, Mào Lẻng, Đông Hưng… góp phần mở rộng củng cố khu căn cứ Thập Vạn Đại Sơn của bạn.

Để có được những chiến thắng vẻ vang ấy, bộ đội ta cũng phải hy sinh xương máu. Hàng chục chiến sĩ đã nằm lại khắp các chiến trường. Hàng chục chiến sĩ khác bị thương. Cho dù hy sinh mất mát, bộ đội ta vẫn luôn thấm nhuần lời căn dặn của Bác Hồ và Bộ Tổng tư lệnh trước khi lên đường. Chiến đấu dũng cảm, kỷ luật nghiêm, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, được nhân dân Trung Quốc yêu mến, hết lòng giúp đỡ với lời khen ngợi: “Giải phóng quân Việt Nam, áo màu nâu, mũ mõm trâu, đánh phi thường…”.

Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn cũng nhận định: “Thắng lợi về quân sự đã quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn lớn hơn nhiều”. Có lẽ hơn ai hết, những người dân Trung Quốc cùng những người lính Việt Nam đã từng sống trong những năm tháng gian khổ đó mới thấm thía hết ý nghĩa của nhận xét trên.

Bởi một lẽ đơn giản - Bộ đội Cụ Hồ đã đi vào lòng dân Trung Quốc bằng việc làm thiết thực nhất, những cử chỉ nhỏ nhất. Các cựu chiến binh Thập Vạn Đại Sơn kể lại: “Ban đầu, nhìn thấy bộ đội ta tới, người dân địa phương không biết bộ đội là người thế nào đã đóng chặt cửa không cho vào nhà. Khu vực dân cư hồi đó rất bẩn, hè phố sau trận mưa lụt lội, rác rưởi vương khắp nơi. Bộ đội ta bố trí anh em canh gác hai đầu phố đề phòng quân Quốc dân đảng và phỉ quay lại quấy nhiễu, bộ phận còn lại tổ chức làm vệ sinh, khai thông cống rãnh, quét dọn hè phố sạch sẽ. Xong việc, bộ đội ta tập trung đàn hát. Ban đầu chỉ có mấy đứa trẻ tò mò mon men tiến lại gần để làm quen với những người “đội mũ mõm trâu” (một kiểu mũ đan được dùng phổ biến trong những năm kháng chiến chống Pháp). Khi đã quen dần, các cháu mạnh dạn chơi đùa, đàn hát với bộ đội. Các cô y tá lấy thuốc sát khuẩn rửa các vết mụn nhọt và bôi thuốc cho chúng. Nhìn những hành động của bộ đội ta đầy thân thiện, các bà mẹ tin ngay và mời bộ đội ta vào nhà. Khi vào nhà, chiến sĩ ta tuân thủ nghiêm kỷ luật dân vận, không tơ hào dù một vật nhỏ nhất của dân. Ai cũng tự giác, chăm chỉ, dọn dẹp nơi ăn chốn ở, cùng bà con làm công tác vệ sinh trong nhà ngoài ngõ, các khu chuồng trại. Trong mấy ngày bộ đội ta lưu lại, từ đầu phố tới cuối phố, các bản làng xung quanh đâu cũng sạch sẽ, gọn gàng. Bà con trong con phố và bản quanh đó rất cảm phục”.

Từ chỗ cảm phục, bà con đã kể cho bộ đội ta nghe về cuộc sống nơi đây: “Chúng tôi đã phải chịu mấy tầng áp bức. Từ quân Quốc dân đảng, thổ phỉ, tới địa chủ, cường hào ác bá địa phương… tất cả chúng đều bóc lột tới tận xương tủy. Gạo không có ăn, cuộc sống tính bằng ngày với khoai, sắn…”. Rồi họ chỉ cho bộ đội ta thấy các vết đốt phá vẫn còn nham nhở khắp nơi, nhà cửa tan hoang, xóm làng tiêu điều, dân chúng đói gầy xơ xác vì có cái gì dùng được, ăn được đều bị cướp hết...

Trong câu chuyện lúc được lúc chăng với vốn tiếng ít ỏi học được từ anh phiên dịch trong đoàn, mọi người vẫn hiểu được lời nói của bà cụ chủ nhà: “Những việc như bộ đội Việt Nam làm mấy hôm trước như dọn dẹp, chơi với trẻ con, yêu quí dân bản… thì bọn Quốc dân đảng ở đây nó không làm cho tao đâu…”.

Tình cảm của bộ đội ta với nhân dân địa phương Trung Quốc gắn bó với nhau qua từng ngày, qua những câu chuyện vô cùng giản dị. Cuộc sống của nhân dân tại các vùng này vô cùng khó khăn, cháo cũng không đủ ăn, mỗi nhà dân hầu như lúc nào cũng có một nồi cháo loãng. Gọi là cháo thôi, nhưng thực ra chỉ có nước với rau, để ai đói quá, vào húp một ngụm cho ấm bụng. Dân đã vậy, cuộc sống của bộ đội ta và du kích quân của bạn cũng không hơn gì. Cái đói là chủ đề mà người ta nói đến nhiều nhất. Chính vì vậy, câu chào được mọi người hay dùng nhất là: “Ăn cơm chưa?”.

Bà Sâm, ông Tân, ông Quý… nhớ mãi hình ảnh những người trung đội trưởng, đại đội trưởng hay tổ trưởng tổ quân dược… thường phải ngồi đầu nồi để tự tay chia số khẩu phần ít ỏi cho mọi người. Những khi hết gạo, chỉ vài củ khoai to bằng ngón chân cũng có thể thành một nồi cháo.

Khi không còn rau, những cuống dọc khoai để chống đói khiến cổ họng bỏng rát vì ngứa khiến ai cũng sợ, nhưng rồi vẫn phải ăn… Thương nhau không biết nói gì, mọi người nhìn nhau mà làm, mà ăn, mà công tác. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy mà không ai bỏ bễ công việc. Ở các đơn vị có thời điểm 15% quân số đã bị quáng gà do thiếu chất dài ngày. Bà Sâm kể: “Khi đó tôi mới thấm câu đói vàng mắt nghĩa là thế nào”. Quả thật cái đói khiến chân tay bủn rủn, những khi làm việc quá sức, mắt hoa lên, nhìn đằng trước chỉ thấy một màu vàng lờ mờ, đùng đục…

Trong những lúc khó khăn nhất, tình cảm giữa những con người cụ thể của hai dân tộc cũng cụ thể hơn rất nhiều. Không màu mè, văn hoa. Chỉ là sự chia sẻ với nhau khi thiếu một bữa ăn no. Bà Sâm kể tiếp: “Có một lần, khi hai người dân địa phương vào nơi tổ đang pha chế thuốc, nhìn thấy anh em chia nhau bát cháo loãng, họ thương lắm. Hôm sau họ mang tới một rổ nhỏ khoảng 2kg củ khoai to bằng ngón tay người lớn. Chị em thấy vậy cảm động lắm, tuy nhiên không ai dám nhận, vì biết bà con còn khổ hơn mình”.

Khổ như vậy nhưng đến một viên thuốc bộ đội cũng nhường nhịn cho nhân dân khi khám bệnh. Ông Nguyên kể lại: Để xây dựng tình đoàn kết với nhân dân địa phương, tại những nơi mà đơn vị dừng lại, ban quân y đều tổ chức thăm khám cho nhân dân Trung Quốc. Uy tín của ban quân y ngày càng cao khi chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Tổ quân y giúp dân khám bệnh, cho thuốc, cấp cứu miễn phí… Tại một số xã và thị trấn tương đối giàu có trong vùng, được phép của chỉ huy Lê Quảng Ba, ban quân y còn cử một bộ phận mở phòng khám để khám, chữa bệnh tại thị trấn Nà Lường nhằm cải thiện đời sống cho bộ đội. Tuy nhiên, đồng bào nghèo vẫn được khám, chữa miễn phí, chỉ lấy tiền của những người khá giả trả tiền tự nguyện.

Trong đợt khám bệnh cho nhân dân, tổ quân y của y sĩ Trịnh Phúc Nguyên đã khám cho hàng trăm người dân địa phương, trong đó tổ quân y đã cứu được nhiều trường hợp bị bệnh rất nặng. Một cháu bé bị phù phổi cấp nặng, tổ quân y đã cứu chữa cháu sống lại. Một trường hợp khó đẻ, tưởng không thể cứu được, cuối cùng bằng thủ thuật và tài năng của tổ quân y, ca đẻ đã thành công.

Tấm gương anh dũng trong chiến đấu, nghiêm minh trong kỷ luật, sự tận tụy của các chiến sĩ quân y ở tuyến sau… đã khiến nhân dân Trung Quốc tại những nơi đơn vị đóng quân vô cùng cảm phục.

NGUYỄN HÒA

Kỳ 4: Những kỷ niệm khôn nguôi

Kỳ 1: Giúp bạn như giúp mình 
Kỳ 2: Nắng cháy, mưa rừng trên dãy Thập Vạn Đại Sơn