QĐND - Trong quá trình chiến đấu trong Chiến dịch bảo vệ vùng giải phóng, thị xã và Thành cổ Quảng Trị năm 1972-1973, Trung đoàn 64 đã có nhiều cán bộ dũng cảm, luôn sát cánh bên chiến sĩ, thực sự là tấm gương để chiến sĩ noi theo, củng cố vững chắc niềm tin thắng lợi cho cấp dưới.
Còn tổ 3 người còn đại đội
Đứng trước phần mộ của Thượng úy, Anh hùng liệt sĩ Kiều Ngọc Luân, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 9, hy sinh ngày 19-7-1972, nhạc sĩ Nguyễn Văn Bằng, nguyên chiến sĩ Đại đội 11, Tiểu đoàn 9, say sưa hát tặng tiểu đoàn phó của mình bài hát “Cho ta về Quảng Trị” mà anh vừa sáng tác. Lời bài hát được phối khí trong giai điệu trang trọng, tự hào: “Đồng đội ơi, giữa mùa hè 72 pháo bày bom thảm, Kiều Ngọc Luân là niềm tin biết bao chiến sĩ, chốt giữ Cổ thành, công phá Bích La Đông…”.
Nghe nhạc sĩ Nguyễn Văn Bằng hát, tôi thầm nghĩ, Anh hùng Kiều Ngọc Luân phải có liên hệ mật thiết với địa danh Bích La Đông. Điều này được Đại tá Nguyễn Tất Thịnh, Trưởng ban liên lạc bạn chiến đấu Trung đoàn 64 giải thích: “Bích La Đông là một làng thuộc xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong (Quảng Trị), Anh hùng Kiều Ngọc Luân đã cùng đồng đội chiến đấu, chốt giữ thành công, không cho địch chiếm làng…”.
 |
Cựu chiến binh Trung đoàn 64 dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. |
Qua lời kể của các cựu chiến binh trung đoàn và tài liệu chúng tôi thu thập được, ngay từ cuối tháng 6-1972, Bộ tư lệnh B5 đã dự đoán được ý đồ của đối phương. Đó là, khi tiến công tái chiếm Quảng Trị hướng xã Hải Ba, huyện Hải Lăng không thành, chúng sẽ đưa sư đoàn thủy quân lục chiến tiến sát sông Vĩnh Định, cố chiếm các làng: An Tiêm, Nại Cửu, Bích La Đông, (xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong), nhằm tạo thế, bao vây thị xã Quảng Trị từ hướng đông-đông bắc.
Ngày 3-7 nhận lệnh của trên, Trung đoàn 64 để Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 7 và các phân đội trực thuộc chốt giữ ở xã Hải Ba, huyện Hải Lăng và thôn Linh Chiểu, xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong; điều Tiểu đoàn 9 cơ động chốt giữ làng Bích La Đông. Ngày 14-7, Sư đoàn Thủy quân lục chiến của địch tiến sát sông Vĩnh Định, tiến vào An Tiêm, Nại Cửu, Bích La Đông. Chỉ huy trung đoàn 64 điều tiếp Tiểu đoàn 7 phối hợp cùng Tiểu đoàn 9 chốt giữ Bích La Đông; Tiểu đoàn 8 cùng đơn vị bạn chốt giữ và đánh địch ở Nại Cửu (xã Triệu Đông) và Long Quang (xã Triệu Trạch), huyện Triệu Phong.
Ngày 17-7, khi chốt giữ tiền duyên trận địa ở làng Bích La Đông, Đại đội 11, Tiểu đoàn 9 đã bị thiệt hại lớn. Đại đội hy sinh, bị thương gần hết, chỉ còn 3 chiến sĩ, đó là: Lượng, Khoa, Bằng. Khi 3 người đang gồng mình chống lại các đợt tiến công của địch thì Tiểu đoàn phó Kiều Ngọc Luân xuất hiện. Anh chạy như bay từ phía sau trận địa phòng ngự tới, lưng mang súng AK, hai tay cầm hai quả lựu đạn, quả bên tay phải đã rút chốt. Anh nói như ra lệnh: “Còn tổ 3 người là còn đại đội, không được bỏ trận địa, 3 đồng chí nổ súng thu hút chúng”. Nói rồi, anh chạy về phía hào tiền duyên ném lựu đạn vào 2 ụ súng của địch. Hỏa điểm của địch tạm lắng, sau đó chúng xung phong tràn lên hàng rào phía trước trận địa của ta, ném lựu đạn về phía Tiểu đoàn phó Kiều Ngọc Luân. Anh Luân nhanh như sóc, chộp lựu đạn khi vừa chạm đất tung “trả lại” địch. Trận địa có 4 người của ta đã kìm chân địch trong gần 1 giờ để Đại đội 10, Tiểu đoàn 9 vận động tiến công tiêu diệt toàn bộ Đại đội 3, Tiểu đoàn 6, Lữ đoàn 258, Sư đoàn Thủy quân lục chiến của địch.
Ngày 19-7, Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 7 phối hợp đánh công kích khu nhà bằng cuối làng Bích La Đông, nơi chỉ huy Tiểu đoàn 6, Lữ 258 của địch chốt giữ, đồng chí Kiều Ngọc Luân đã anh dũng hy sinh. Noi gương chiến đấu của anh, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 9 tiến công trên hướng chủ yếu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Lực lượng địch ở Bích La Đông bị tiêu diệt hơn nửa, số còn lại tháo chạy…
Sáng kiến hai mục đích
Đã 5 lần trở lại chiến trường xưa, nhưng lần nào Đại tá Hoàng Điệp, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 cũng đến mộ của Thượng úy Nguyễn Minh Phương, Tiểu đoàn trưởng và Trung úy Nguyễn Phú Chịu, Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn 8 thắp hương. Ông nghẹn ngào nói với đồng đội của mình đang nằm trong lòng đất mẹ: “Chiến công của tập thể Trung đoàn 64 ở Quảng Trị này, công đầu tiên là của các anh. Tôi và các đồng đội chỉ là những người đi sau, viết tiếp thành tích trong trang sử vàng truyền thống”.
Chuyện là, trong trận chiến đấu đầu tiên tại xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, khi truy kích địch rút chạy, chỉ huy Tiểu đoàn 8 đã bị trúng đạn và ngã xuống vùng cát trắng. Dù trải qua nhiều trận đánh, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhưng nhiều cán bộ tiểu đoàn và đại đội đã không trở về, khiến một bộ phận bộ đội hoang mang, dao động trước khó khăn. Đại tá Hoàng Điệp (lúc đó quân hàm Thượng úy, Trợ lý tác chiến của Trung đoàn) nhận quyết định giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 khi đơn vị đang chốt giữ chặn địch tại Long Quang (xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong). Thượng úy Hoàng Điệp suy nghĩ, cần tổ chức đánh một số trận nhỏ, thắng dứt điểm, hạn chế thương vong sau đó mới tổ chức đánh lớn vừa tiêu hao sinh lực địch, vừa ổn định tình hình tư tưởng cán bộ, chiến sĩ. Sau một đêm trăn trở suy nghĩ bàn bạc với các đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn và các đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng Hoàng Điệp quyết định tiến công địch phòng ngự cấp đại đội bằng mìn “hệ thống” (sáng kiến của Ban chỉ huy tiểu đoàn). Đó là dùng mìn phóng liên kết với mìn định hướng bằng khuôn cát cao khoảng 40cm, có nẹp cố định và nẹp đối trọng. Khi mìn phóng nổ, đốt cháy dây cháy chậm, đồng thời đẩy quả mìn định hướng bay lên cao. Việc mìn định hướng nổ ở độ cao bao nhiêu, tùy thuộc vào độ dài của dây cháy chậm. Khi phát nổ, mìn định hướng sẽ phóng ra 780 mảnh kim loại sát thương chụp xuống mặt đất. Để thực hiện đúng ý định của chỉ huy tiểu đoàn, Tiểu đoàn trưởng Hoàng Điệp chọn Thượng sĩ Giang Văn Thành (sau này là Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân), Đại đội trưởng Đại đội 6 là người gan dạ, dũng cảm và thông minh phụ trách việc đánh mìn.
Tiểu đoàn 8 sử dụng lực lượng Đại đội 6 và một phần quân số Đại đội 7, Đại đội 5 phối hợp với Trung đội du kích xã Triệu Trạch đi đánh tập kích khi đêm xuống. Trận đầu tiên, tiểu đoàn đánh đại đội biệt động của địch ở cao điểm “cây ba chạc”. Tiểu đoàn sử dụng mìn “hệ thống” đã giành thắng lợi lớn, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn không ai thương vong, lực lượng địch bị tiêu diệt hoàn toàn trong giây lát. Trận thứ hai phát huy hỏa lực tự chế, Tiểu đoàn 8 đã tiêu diệt gần hết một đại đội thủy quân lục chiến của địch. Từ thắng lợi của các trận đánh nhỏ bằng vũ khí tự sáng chế, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 8 ngày càng được nâng cao, tiểu đoàn cùng các đơn vị bạn đã chốt giữ và bảo vệ thành công vị trí được đảm nhiệm, góp phần tạo nên “Chốt thép Long Quang” đi vào sử sách như huyền thoại trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị.
Từ hai câu chuyện về hai cán bộ tiểu đoàn của Trung đoàn 64 mưu trí, dũng cảm mà chúng tôi đã được nghe kể, được đọc trong các tài liệu lịch sử… các đồng chí Ban liên lạc bạn chiến đấu Trung đoàn 64 còn kể cho chúng tôi nhiều tấm gương cán bộ tiêu biểu, như Đại tá Cù Hoàng Liêu, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7, quá trình chiến đấu, dù bị thương nặng nhưng vẫn xung phong tiêu diệt địch và cõng thương binh, liệt sĩ về tuyến sau. Đại tá Lê Triệu, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 đã chỉ huy tiểu đoàn đánh bại hàng trăm đợt tiến công của địch. Đại tá Lê Ngọc Sơn, nguyên Chính trị viên Đại đội 10, Tiểu đoàn 9 một mình chiến đấu với trung đội địch để giải vây cho các đồng đội bị thương. Thượng sĩ Phạm Tất Đắc, Trung đội trưởng Trung đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 7 một mình bắn 16 quả B40 tiêu diệt nhiều hỏa điểm địch…
Hành động gương mẫu, dũng cảm của cán bộ các cấp trong trung đoàn là mệnh lệnh không lời để chiến sĩ học tập, noi theo, quyết tâm đánh địch, góp phần bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, thị xã và Thành cổ Quảng Trị.
Chiến công của Trung đoàn 64 đã góp phần để ngày 27-1-1973, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết tại Pa-ri. Hoa Kỳ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, công nhận ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Sau chiến dịch bảo vệ vùng giải phóng, thị xã và Thành cổ Quảng Trị, Trung đoàn 64 tiếp tục tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong Chiến dịch bảo vệ vùng giải phóng, thị xã và Thành cổ Quảng Trị, Trung đoàn 64 đã tham gia chiến đấu 230 trận, diệt gần 5.000 tên địch, bắn cháy 70 xe tăng, thiết giáp và xe quân sự, bắn rơi 49 máy bay… Tập thể trung đoàn và nhiều phân đội, nhiều cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. |
Bài và ảnh: MÈ QUANG THẮNG
Đánh trận trên miền cát trắng (Kỳ 1)
Đánh trận trên miền cát trắng (Kỳ 2)