QĐND Online - Các trận đánh diệt ác, phá kềm giải tỏa phong trào, nằm vùng hoạt động trong dân… của liệt sĩ Phạm Chu đã để lại trong lòng nhân dân Hòa Hiệp (Liên Chiểu, Đà Nẵng) những ấn tượng sâu sắc về người cán bộ quả cảm, tuyệt đối trung thành với cách mạng, với nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một Phạm Chu khác, Phạm Chu thông minh táo bạo.
Người cán bộ mưu trí, giỏi nghi binh
Phong trào cách mạng tại Nam Ô, Hòa Hiệp giai đoạn sau Tết Mậu Thân 1968, do sự đánh phá quyết liệt của địch nên tạm lắng. Đến năm 1971, nhiều tên ác ôn bị ta tiêu diệt cùng với việc quân Mỹ rút đi làm cho tình hình bớt căng thẳng. Cán bộ quân đội, công an, dân chính đảng có thể bí mật đi về phát động quần chúng. Phạm Chu bấy giờ là Trưởng ban An ninh khu 1 (tương đương trưởng công an quận, huyện bây giờ), không phải bám trụ thường xuyên nữa. Anh vẫn xuống địa bàn diệt ác ôn, sau đó lên căn cứ. Một trong những chuyến đi ấy đã để lại trong lòng ông Hồ Duy Trinh, nguyên cán bộ y tế-Đảng ủy viên khu 1, ấn tượng không bao giờ phai.
Đêm 19-3-1971, Phạm Chu, Hồ Văn Trinh và Nguyễn Văn Mẹo trong dịp xuống đồng bằng đi công tác đã về trú tại hầm bí mật tại Đồng Nà (Xuân Thiều). Căn hầm này do chính Phạm Chu đào khi đang hoạt động bám địa bàn. Khoảng 7 giờ ngày 20-3, Nguyễn Văn Mẹo bật nắp hầm lên đi ra ngoài làm nhiệm vụ riêng. Phạm Chu và Hồ Văn Chinh tiếp tục nằm dưới hầm, chờ trời tối mới vào làng. Không ngờ, khoảng 9 giờ, địch đến tìm. Hai người nằm trong hầm nghe tiếng bước chân thìch thịch. Phạm Chu bảo: “Có địch rồi”. Lúc bấy giờ, mỗi lần đi ráp, khui hầm bí mật thường có cố vấn Mỹ đi cùng với lính ngụy. Ông Chinh hồi tưởng: “Tui nghe thằng lính báo cáo: Báo cáo đại úy có hầm bí mật. Tên đại úy ra lệnh đem mìn vô dựt ngay. Tui nói chết rồi”. Phạm Chu trấn an: “Bình tĩnh! Anh phải nhanh chóng đội nắp hầm lên nghe chưa”. Hai người nín thở chờ đợi. Vì khi địch bước vô đặt mìn nhưng chưa bấm, vì nó còn phải lùi ra. Chớp thời cơ, Chinh đội nắp hầm lên, Phạm Chu lập tức liệng luôn hai quả lựu đạn M26 và xách súng AK vọt lên trước. Hồ Văn Chinh bám theo, trước mắt anh, hai tên nằm sóng sượt không biết chết hay sống, còn bọn lính đang chạy tán loạn. Sau đó, các anh chia thành hai hướng vừa bắn vừa rút lui. Phạm Chu chạy thẳng vào Xuân Thiều, được gia đình cơ sở che giấu, địch không phát hiện ra. Còn Hồ Văn Chinh chạy ra hướng bờ sông, địch đuổi bắn bị thương, nằm mê man dưới bờ ruộng. Bọn lính chạy đến, thấy anh mang đồ y tế, chúng bảo nhau: Thằng ni đúng là bác sĩ. Chúng đưa Hồ Văn Chinh về bệnh xá chữa lành vết thương, sau đó chuyển sang trại giam Hòa Vang. Biết Chinh là người nằm cùng hầm bí mật với Phạm Chu hôm ấy, Trung tá Mai Xuân Hậu, Quận trưởng quận Hòa Vang, trực tiếp gọi anh lên thẩm vấn. Ông ta hỏi: “Tay Chu như thế nào mà giỏi thế? Giữa cánh đồng, hơn một đại đội quân lực Việt Nam cộng hòa bao vây mà vẫn thoát được”.
 |
|
Bàn thờ 4 anh em liệt sĩ: Phạm Văn Bất, Phạm Văn Nam, Phạm Thêm và Phạm Chu
|
Đối với ông Lê Thành Thương, nguyên Bí thư chi bộ xã Hòa Hiệp (sau là Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Quận ủy Liên Chiểu), Phạm Chu là người cán bộ có tầm nhìn sâu rộng, tài nghi binh. Trong những năm 1971-1972, Lê Thành Thương là Trung đội phó an ninh vũ trang khu 1. Tuy ở Ban An ninh khu 1 với Phạm Chu hai năm, nhưng Lê Thành Thương không thể nào quên hình ảnh người đảng viên cộng sản, một cán bộ an ninh tiêu biểu hoạt động trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gian khổ nhất, ác liệt nhất và tàn khốc nhất. Ông Thương nhấn mạnh: “Anh Chu đã hội tụ cả phẩm chất, đức tính và hành động cách mạng: bản lĩnh vững vàng, kiên trung với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân; không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh; dám nghĩ, dám làm, luôn tiên phong xông thẳng vào những nơi ác liệt, hiểm nguy để công tác, chiến đấu, xây dựng lực lượng. Chính vì vậy mà anh Chu là một người nổi tiếng ở thời điểm ấy trên địa bàn khu 1, làm cho kẻ địch khiếp sợ, hoang mang, có lúc gần như tê liệt; ta giữ vững và phát triển lực lượng, phong trào cách mạng lên cao”. Cũng theo ông Thương, đi đôi với những cách đánh đầy mưu trí, quyết liệt, giáp mặt với kẻ thù, Phạm Chu còn có tư duy rất độc đáo, sáng tạo để hù dọa tinh thần, gây tâm lý hoang mang, lo sợ, làm giảm tính cách, hành động hung hăng, tàn bạo của địch. Minh chứng cho nhận định này, ông Lê Thành Thương nhắc lại chuyện Trưởng ban An ninh khu 1 Phạm Chu quyết định thành lập Trung đội An ninh vũ trang khu 1 năm 1971. Anh phân công đồng chí Đặng Thị Nhỏ làm trung đội trưởng, Lê Thành Thương làm trung đội phó (không có văn bản quyết định đề bạt như bây giờ), cứ thế mà làm. Lê Thành Thương được “lên chức” nghe cũng thấy “oai”, song trong trong lòng còn phân vân, liền hỏi anh Chu: “Chỉ có 6 đến 7 chiến sĩ an ninh vũ trang mà lập một trung đội, dữ vậy anh?”. Phạm Chu chậm rãi phân tích: “Quan trọng gì quân số. Ta tuyên bố thành lập trung đội, gây tiếng vang để cho địch nghe là khu 1 có một trung đội an ninh vũ trang là chúng sẽ khiếp. Vì đây là lực lượng trực tiếp diệt ác phá kềm”. Thực tế, đúng như nhận định của Phạm Chu, sau khi thành lập trung đội an ninh vũ trang, địch hạn chế vây, ráp, đi lại lùng sục, bắt bớ, khủng bố cơ sở cách mạng, cán bộ đảng viên, nhất là những đồng chí hoạt động hợp pháp trong vùng địch.
Sự hi sinh thầm lặng
Chỉ trong hai năm 1965 và 1968, ba người con trai của ông Phạm Thế Điền lần lượt ngã xuống vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Các anh là những người lính tuổi đời còn rất trẻ. Anh Thêm chỉ mới 25 tuổi (hi sinh 1965), anh Bất vừa tròn ba mươi và anh Nam ít hơn anh Bất một tuổi. Ngày trước, mẹ Phạm Thị Sâm (sau này được tuyên dương Bà mẹ Việt Nam Anh hùng) lặng lẽ tiễn 3 đứa con trai lớn lên đường. Không ngờ chỉ vài năm sau, mẹ lại âm thầm đón nhận tin các con mãi mãi không về, không dám khóc, không dám lập bát hương. Mẹ còn mỗi anh con út Phạm Chu, thế rồi anh cũng giấu mẹ, bí mật vượt sông lên núi theo cách mạng. Trong khi bốn anh em đang chiến đấu trên các mặt trận an ninh, quân sự thì bọn tề ngụy cứ lâu lâu lại bắt mẹ Sâm, ông Điền, chị Chủi và chị Trúc lên đồn đánh đập, tra khảo, bắt gọi các con về với “chính nghĩa quốc gia”.
Gia đình phải bỏ chạy từ Xuân Thiều đến tận xóm Giữa (Hòa Hiệp), chúng vẫn không tha. Phạm Chu đi, lâu lâu có tạt về nhà mang thuốc, tiền, gạo… đã được hai chị chuẩn bị sẵn lên căn cứ. Năm 1969, tình hình đang ác liệt, biết gia đình ông Phạm Thế Điền đã mất đi 3 người con trai, tổ chức quyết định cho Phạm Chu ra miền Bắc. Một hôm, anh về trao đổi với chị dâu: “Chị Hai! Họ cho em đi miền Bắc. Chị cho con Tuyết đi với em”. “Thôi, em cố gắng đi đi. Cháu để chị nuôi cho, không đến nỗi chi”, chị trả lời. Phạm Chu tiếp tục lên núi, chừng nửa tháng trở về nhà bảo các chị chuẩn bị cho em ra Hà Nội học. Bà Trúc nhớ lại: “Nghe nó nói thế, mình cũng mừng, nhà còn lại được đứa đó”. Hai chị em vội sắm sửa quần áo, thuốc men cho chú út ra Bắc. Không ngờ khoảng nửa tháng sau, Phạm Chu lại về. Mẹ Sâm hỏi: “Ủa! Răng con không đi miền Bắc?”. Anh trả lời: “Thôi, chiến tranh ri, mình chết hết rồi. Ai chừ đi miền Bắc mần chi” và quyết định ở lại chiến đấu, diệt ác phá kềm. Để rồi đến tháng 9-1971, chiến tranh đã mang nốt người con của mẹ về bên kia bầu trời. Phạm Chu hi sinh khi đang cùng tổ diệt ác bám đường đánh biệt kích. Nhằm che mắt bọn tề ngụy, gia đình không một tiếng khóc thương, không dám lập bát hương thờ phụng. Vì đối với chúng, “ông Chu” chết nghĩa là nỗi lo sợ vơi đi rất nhiều. Chúng sẽ đến đập phá, đốt nhà để trả thù cho đồng bọn đã bị anh tiêu diệt. Vì vậy, đến khi nước nhà giải phóng, linh vị liệt sĩ Phạm Chu mới được đặt lên bàn thờ gia tộc.
Sự hi sinh to lớn cho sự nghiệp cách mạng của gia đình ông Phạm Thế Điền nói chung, liệt sĩ Phạm Chu nói riêng không chỉ để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với nhân dân Xuân Thiều, Hòa Hiệp mà còn là bài học quý báu cho thế hệ sau. Tham dự buổi gặp mặt, ông Nguyễn Bá Đức-Phó bí thư Quận ủy Liên Chiểu, Đà Nẵng, xúc động bày tỏ: “Qua buổi gặp mặt nhân chứng hôm nay, tôi thấy hành động của đồng chí Phạm Chu xứng đáng đề nghị Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Đó cũng là tâm nguyện của những con người một thời vào sinh ra tử với liệt sĩ Phạm Chu.
Bài, ảnh: Nguyễn Sỹ Long
Kỳ 1: Nơi miền quê cách mạng