QĐND - Về ATK Định Hóa, Thái Nguyên, chúng tôi tìm đến khu vực Hầm Năm cửa và được nghe các nhân chứng lịch sử kể về quá trình xây dựng hầm, hoạt động bí mật của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (TCCT) và cơ quan TCCT tại căn hầm này, góp phần tham mưu cho Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh và trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, tiến hành hiệu quả CTĐ, CTCT trong xây dựng, chiến đấu của LLVT.

Trao đổi với chúng tôi về lịch sử Đảng bộ xã Định Biên, đồng chí Ma Khánh Huân, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã nhiều lần nhắc đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ xã Định Biên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gắn với việc bảo vệ Hầm Năm cửa và bảo vệ cán bộ hoạt động cách mạng tại địa phương. Theo đồng chí Huân và ông Hoàng Văn Luận, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Định Biên, cùng tài liệu chúng tôi thu thập được, Hầm Năm cửa (người dân nơi đây thường gọi là Hầm Xuyên núi) được làm từ cuối năm 1950 đầu năm 1951 tại đồi Ót Nghè, thôn Thâm Tắng, xã Định Biên. Căn hầm này từng là nơi làm việc của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Tổng Quân ủy, Chủ nhiệm TCCT và cơ quan TCCT.

Ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 121/SL về tổ chức Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam, gồm các cơ quan: Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị và Tổng cục Cung cấp. Ba cơ quan trên có nhiệm vụ: Trực tiếp giúp Tổng Tư lệnh trong việc chỉ đạo chiến tranh. Theo Sắc lệnh số 121/SL, TCCT được thành lập trên cơ sở phát triển từ Cục Chính trị. Điều 3 của Sắc lệnh ghi rõ: “TCCT có nhiệm vụ giúp Tổng Tư lệnh chỉ đạo quân đội về phương diện chính trị. TCCT gồm có: Cục Tổ chức, Cục Tuyên huấn, Cục Địch vận, Cục Quân pháp, Nhà xuất bản Vệ quốc quân”. Cũng trong ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 122/SL, bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Ðảng, nguyên Bí thư Liên khu ủy 4 làm Chủ nhiệm TCCT, Phó bí thư Tổng Quân ủy; đồng chí Lê Liêm, nguyên Cục trưởng Cục Chính trị làm Phó chủ nhiệm TCCT.

Bà Triệu Thị Đức kể về Hầm Năm cửa.

Cuối tháng 6-1950, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến xã Định Biên, thời gian đầu đồng chí ở và làm việc tại thôn Làng Quặng, sau đó, do yếu tố bí mật nên đồng chí chuyển đến các thôn: Đồng Rằm, Khau Lầu; năm 1951 đồng chí làm việc trong Hầm Năm cửa trên địa bàn thôn Thâm Tắng. Để giúp chúng tôi tìm hiểu rõ hơn về căn hầm, hoạt động của đồng chí Nguyễn Chí Thanh và cơ quan TCCT, đồng chí Ma Khánh Huân giới thiệu chúng tôi đến gặp bà Triệu Thị Đức ở thôn Khau Lầu. Các đồng chí cán bộ xã cho biết: Ngày đó, gia đình bà Đức đã nhường nhà cho bộ đội xây dựng hầm. Bà Đức nhiều lần đưa cơm, nước uống từ nhà ở của gia đình đồng chí Nguyễn Chí Thanh lên Hầm Năm cửa.

Trong căn nhà tình nghĩa vừa được cấp ủy, chính quyền địa phương và các đơn vị quân đội xây tặng, bà Triệu Thị Đức vui vẻ tiếp chuyện những người khách muốn tìm hiểu về sự kiện lịch sử diễn ra trên quê hương mình. Khi chúng tôi đặt vấn đề muốn được nghe kể chuyện về căn Hầm Năm cửa, bà Đức lặng người đi, đôi mắt của cụ bà 75 tuổi rớm lệ. Rồi bà hào hứng kể, với giọng đầy tự hào. Ký ức của bà đưa chúng tôi trở về sự kiện lịch sử một thời hào hùng.

Cán bộ Ban CHQS huyện Định Hóa và người dân địa phương phát quang đường vào cửa chính Hầm Năm cửa.

Vào một buổi chiều cuối tháng 7-1950, bà Nông Thị Đành (là mẹ đẻ của bà Triệu Thị Đức) biết chuyện có đơn vị bộ đội đến khu vực sau vườn nhà mình dựng lán trại để đào hầm làm việc cho cán bộ quân đội. Bà Đành liền gặp chỉ huy đơn vị và đề nghị được nhường ngôi nhà gỗ 3 gian, 2 chái mà bốn mẹ con đang ở cho bộ đội thực hiện nhiệm vụ quan trọng. Bà nói với đồng chí chỉ huy: “Các anh đông người, nhà tôi lại rộng, bốn mẹ con ở không hết, chồng tôi đi làm nhiệm vụ cách mạng ở xa, lâu mới về (lúc này bố của bà Triệu Thị Đức là ông Triệu Ngọc Trung, làm Đội trưởng Đội bảo vệ giữ kho quân khí ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), nay tôi nhường ngôi nhà cho các anh ở, để thực hiện nhiệm vụ cách mạng”.

Sau đó, các đơn vị gồm: Đại đội 270 của huyện Định Hóa và 2 đơn vị đóng quân ở Chợ Chu (Định Hóa) và lực lượng dân quân xã Định Biên đã mở rộng hai chái nhà của gia đình bà Đành để ở được nhiều người hơn và giúp mẹ con bà làm ngôi nhà tre 2 gian gần đó.

Thời gian này, thỉnh thoảng thực dân Pháp vẫn bắn phá vào xã Định Biên, tuy đạn pháo không đến thôn Thâm Tắng, nhưng nghe rõ tiếng nổ. Bà Đành dặn con phải giữ bí mật, tuyệt đối không được nói với ai là có bộ đội làm nhiệm vụ gần nhà mình và phải giúp các bác, các chú cảnh giới người lạ.

Theo bà Triệu Thị Đức, công việc làm hầm của bộ đội được tiến hành rất khẩn trương, có 3 tổ đào đất, mỗi tổ khoảng 20 người và bộ phận bảo đảm. Các tổ đào đất ở 3 hướng là: Đông Nam, Đông Bắc và Tây Nam. Ba hướng đó là 3 cửa chính của hầm. Hai cửa phụ nằm ở hướng Tây Bắc và hướng Nam được khoét từ trong hầm ra, có chu vi bằng vành mâm cơm. Đất đào trong núi được bộ đội và dân quân vận chuyển bằng cáng tre mang đi đổ ở khe sâu gần đó. Bộ phận bảo đảm chặt những cây cọ già trên rừng về cắt thành đoạn, bổ làm bốn, ngâm nước vôi đặc để chống hầm cho chắc chắn và không bị mối mọt. Vôi được bộ đội gùi từ khu vực Chợ Chu (Định Hóa) đến và tôi dưới ruộng nhà bà Đành trong đêm; tôi xong được phủ bùn kín để tránh lộ bí mật. Sau này, người dân ở thôn Thâm Tắng gọi những thửa ruộng gần đó là khu “ruộng vôi”.

Hầm Năm cửa được đào sâu xuống lòng đất hàng chục mét. Sau này, khi cơ quan TCCT chuyển đi, bà Đức có vào trong hầm và thấy không gian trong đó rất rộng. Cửa hướng Đông Nam có 5 bậc xuống. Cửa hướng Đông Bắc nhỏ hơn có 3 bậc xuống. Cửa hướng Tây Nam đi thẳng. Hầm được chia thành nhiều ngăn nhỏ và nhiều ngách. Giữa hầm có một khu rộng: Chiều cao khoảng 2m, chiều ngang gần 3m, chiều dài hơn 5m, ngồi được khoảng 30 người. Khu vực này được lấy ánh sáng và thông gió từ cửa hướng Tây Bắc và hướng Nam, nên rất thoáng mát.

Khi Hầm năm cửa sắp hoàn thành, bộ đội làm thêm một ngôi nhà tre dưới gốc cây thị, cách cửa Đông Nam của hầm khoảng 60m. Căn nhà này và ngôi nhà bà Đành nhường cho bộ đội trở thành nơi ở của gia đình đồng chí Nguyễn Chí Thanh và bộ phận cảnh giới, nấu ăn cho cán bộ làm việc trong hầm. Bà Đức nhớ lại: “Vào một buổi sáng đầu tháng 2-1951, có nhiều đồng chí bộ đội mang theo ba lô và đồ dùng cá nhân đến rồi vào trong hầm đến tối mịt mới ra. Trong đó có một bác dáng người cao, khuôn mặt phúc hậu, sau này tôi mới biết đó là bác Nguyễn Chí Thanh”.

Trong căn nhà tre của gia đình đồng chí Nguyễn Chí Thanh phía dưới căn hầm, bà Đức nhớ nhất một người có tên bí danh là Chiên. Trong ký ức của cô bé Đức, bác Chiên là người rất khéo tay, hay lấy vải cắt thành áo tặng các cháu nhỏ trong thôn. Nhiều lần sang chơi, cô bé giúp bác Chiên đun nước vối, sau đó cho vào ấm đất mang lên hầm cho các bác, các chú cán bộ. Lần đầu tiên cô bé mang nước đến cửa chính của hầm, có chú tên là Vinh đến đỡ lấy ấm nước. Chú Vinh xoa đầu cô bé và nói: “Các bác bận họp, đường hầm khó đi, cháu để chú đưa nước vào giúp cho”. Lâu dần thành quen, nên cô bé Đức ngày ấy chỉ mang cơm và nước uống đến cửa hầm rồi đưa cho các chú canh gác mang vào trong cho cán bộ.

Đến năm 1952, gia đình bà Đức chuyển đến ở thôn Khau Lầu. Mẹ của bà vừa làm công việc đồng áng vừa làm cảnh giới cho căn cứ cách mạng. Sau này, khi cách mạng thành công, cơ quan TCCT chuyển về thủ đô Hà Nội, đồng chí Nguyễn Chí Thanh có tặng gia đình bà Đức chiếc ghế gỗ mà đồng chí thường ngồi làm việc trong Hầm Năm cửa.

Trong thời gian làm việc tại Hầm Năm cửa (từ 1951-1954) đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã cùng tập thể Tổng Quân ủy, TCCT đề ra và thực hiện thành công nhiều giải pháp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, góp phần tạo nên nhiều thắng lợi lớn.

Tìm vào khu vực Hầm Năm cửa, chúng tôi thấy các cửa ra vào của hầm đã bị đất đá theo thời gian vùi lấp, nhưng bà Triệu Thị Đức vẫn khẳng định với chúng tôi: “Trong hầm vẫn còn nguyên hiện trạng vì hầm được làm rất chắc chắn”. Bà mong muốn các cơ quan chức năng của quân đội, TCCT phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương khôi phục lại Hầm Năm cửa để di tích này thực sự trở thành địa chỉ giáo dục truyền thống sâu sắc, sinh động, giàu ý nghĩa đối với nhân dân và LLVT,  nhất là với thế hệ trẻ.

Bài và ảnh: MÈ QUANG THẮNG

Kỳ 1: Căn cứ bí mật

Kỳ 3: Cuộc gặp tại chùa Linh Chà và quyết định chỉnh quân