QĐND - Trong Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về trận “Điện Biên Phủ trên không” (Tổng tập Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp-NXB Quân đội nhân dân năm 2006) có đoạn viết: “Trong buổi giao ban ngày 18-12-1972, Cục 2 báo cáo: Hồi 5 giờ sáng, ta bắt được tin của địch từ sân bay hỏi: “Trực thăng hôm nay cấp cứu ở đâu?”. Trưa hôm ấy, một máy bay RF4C bay qua bầu trời Hà Nội báo về căn cứ: “Thời tiết quanh Hà Nội hoạt động được”. Trên bầu trời Khu 4, hoạt động của không quân địch đột ngột giảm xuống, đặc biệt không có tốp B-52 nào…Đây là những dấu hiệu không bình thường…”
Để có được tin cung cấp cho Tổng hành dinh, các trinh sát kỹ thuật đã vượt qua nhiều gian khó, đối đầu với những chuyên gia sừng sỏ, dày dạn kinh nghiệm của Mỹ để tìm ra dấu hiệu tình báo, từ đó giải mã B-52.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm một đơn vị Trinh sát kỹ thuật Cục 2 đêm 20-12-1972. Ảnh: Tư liệu.
|
Ghi sâu lời dặn của Bác Hồ đầu năm 1968, khi Người đến thăm Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua”, từ giữa năm 1971, Đại đội 2 Trinh sát kỹ thuật đã nhận được chỉ thị của trên tổ chức nắm B-52. Sau khi quán triệt nhiệm vụ cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ, Đại đội trưởng Trần Văn Tụng thành lập một tiểu đội trinh sát dò tìm B-52. Sau một thời gian, Thiếu úy Nguyễn Đăng Phúc đã phát hiện ra sóng B-52. Cả tiểu đội kiên trì mai phục, dù cho tin tức của mạng bắt đầu rời rạc, lẻ tẻ. Đến tháng 6-1972 cũng trên sóng đã được phát hiện, các trinh sát nhận được một bức điện của máy bay đang bay báo cho căn cứ: “Động cơ số 5 bị hỏng, xin trở về An-đéc-xơn” (An-đéc-xơn là căn cứ không quân Mỹ ở Gu-am). Như vậy chiếc máy bay này đích thị là B-52, bởi chỉ có B-52 mới có 8 động cơ, còn các loại máy bay khác chỉ có 4 động cơ. Biết chính xác sóng của B-52, từ đó các trinh sát kỹ thuật ngày đêm bám nắm theo dõi động thái.
Tháng 8-1972, Đại đội 2 tổ chức hội nghị chuyên đề bàn cách nắm B-52 và dự đoán các tình huống. Cuối cùng, hội nghị đưa ra dự đoán nếu B-52 đánh lớn ở Hà Nội thì các đợt ném bom lẻ tẻ ở Trường Sơn phải dừng để tập trung lực lượng; không quân chiến thuật đánh phá Quân khu 4 hạn chế để hợp lực hỗ trợ; đường bay từ Gu-am tới Việt Nam dài, nhất thiết phải có tổ chức tiếp dầu trên không cho B-52. Có thể qua máy bay tiếp dầu mà ta nắm được B-52.
Tình huống thực tế sau đó xảy ra hoàn toàn đúng như dự đoán.
Tháng 12-1972, trời rét thấu xương, lại thêm mưa bụi lất phất làm cho bầu trời càng thêm u ám. Hội nghị Pa-ri về vấn đề Việt Nam tạm hoãn, đồng chí Lê Đức Thọ lên đường trở về Hà Nội. Tình hình rất căng thẳng, báo hiệu một trận đánh lớn sẽ nổ ra.
Sáng ngày 17-12-1972, các trinh sát của Đại đội 2 giải mã được bức điện của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương gửi cho Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ, nội dung: “Hoãn tất cả các chuyến đi phép của phi công. Mọi quân nhân ở tại trại chờ lệnh”.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và thứ hai, khi đánh Hà Nội, Mỹ chỉ sử dụng 2 tàu sân bay. Nhưng trong ngày 17-12, Mỹ điều 5 tàu sân bay vào vùng biển Việt Nam. Mỗi tàu sân bay có từ 80 đến 120 máy bay, như vậy trên vùng biển Việt Nam lúc này có khoảng 400 đến 500 máy bay. Tất cả các tàu sân bay đều lên cao tận vĩ tuyến 20. Kinh nghiệm nắm không quân và Hải quân Mỹ cho các trinh sát biết rằng, đó là dấu hiệu địch dùng máy bay chiến thuật đánh lớn vào Hà Nội.
Chiều ngày 17-12, theo dõi trên sóng mạng, các trinh sát biết B-52 ngừng tất cả các cuộc ném bom ở Trường Sơn, không quân chiến thuật ngừng oanh kích ở Quân khu 4.
5 giờ sáng ngày 18-12, tàu sân bay chạy bằng năng lượng nguyên tử Enterprise có bức điện hỏi: “Lực lượng cấp cứu bố trí ở đâu?” Câu hỏi này nhằm vào lực lượng cấp cứu của Tập đoàn 7 không quân Mỹ, có nghĩa là sẽ có sự phối hợp giữa Tập đoàn 7 và Hạm đội 7. Lập tức, trực ban đại đội báo cáo cấp trên: “Hôm nay địch sẽ đánh rất lớn”. Cùng lúc đó, thành phố Hà Nội ra lệnh sơ tán nhân dân ra khỏi nội thành.
8 giờ cùng ngày, Đại đội trưởng Trần Văn Tụng đi kiểm tra tình hình. Trung úy Phùng Thế Phẩm cho biết: “Sóng B-52 từ sáng đến giờ hoàn toàn im lặng”. Hai anh nhận định có thể chúng thay đổi tần số và lệnh cho tiểu đội trinh sát lùng sục. Quả nhiên, địch đang làm việc ở tần số rất cao nay đột ngột chuyển xuống tần số rất thấp để đánh lừa ta. 9 giờ 30 phút, đại đội phát hiện đã xuất hiện các danh hiệu mới vào liên lạc. Đó là máy bay tiếp dầu KC135.
Mạng sóng B-52 do Thiếu úy Nguyễn Đăng Phúc phát hiện giữa năm 1971. Trong một bản báo cáo, anh còn cho biết do sơ suất của đối phương, có một danh hiệu mới vào liên lạc. Đó là KC135, máy bay tiếp dầu cho B-52 đóng trên đất Nhật Bản. Thời gian trôi qua đã 18 tháng, nay lại thấy nó xuất hiện. Sau đó, trực ban Vũ Văn Khoa “đếm’ được 13 chiếc máy bay tiếp dầu vào cuộc. Cứ một KC135 tiếp dầu cho 3 máy bay B-52, nghĩa là 39 chiếc B-52 ở Gu-am sẽ được tiếp dầu trên không.
11 giờ 30 phút, máy bay chỉ huy điện tử phía Đông và phía Tây lên làm việc. Đây là dấu hiệu quan trọng. Thông thường, khi không quân Mỹ từ các căn cứ ở Thái Lan vào oanh kích Việt Nam thì chỉ có một máy bay điện tử làm việc. Nay xuất hiện thêm một chiếc nữa, chứng tỏ địch sẽ vào thêm ở hướng biển. Cùng lúc này, máy bay chỉ huy cấp cứu của Tập đoàn 7 không quân (đóng ở căn cứ Thái Lan) lên làm việc. Thông thường, khi hai loại máy bay này lên thì khoảng 3 giờ sau, trận oanh kích sẽ bắt đầu.
11 giờ 50 phút, thu tin viên Trần Văn Đắc reo to: “Nó đây rồi!”. “Nó” là B-52. B-52 đã xuất kích từ đảo Gu-am. Căn cứ vào tốc độ bay, đường bay từ Gu-am đến Hà Nội, còn khoảng 7 giờ 30 phút nữa chúng sẽ vào không phận Hà Nội. Tập thể đại đội quyết định báo cáo cấp trên. 11 giờ 55 phút, trực ban Vũ Văn Khoa gọi điện báo cáo thủ trưởng Cục 2, Bộ Tổng tham mưu, đồng thời báo với Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân. Nội dung bức điện như sau: “19 giờ 30 phút đến 20 giờ 30 phút tối nay (18-12), 50 lần chiếc B-52 và 100 lần chiếc máy bay không quân chiến thuật sẽ đánh Hà Nội”. Trực ban Bộ Tổng tham mưu hỏi: “Tại sao biết B-52?”, đại đội giải trình căn cứ từ các dấu hiệu như trên. Thực tế tối hôm đó có 90 lần chiếc B-52 và 163 lần chiếc máy bay chiến thuật vào đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Như vậy, Mỹ đã huy động lực lượng B-52 của cả hai sân bay An-đéc xơn (Gu-am) và U-ta-pao (Thái Lan). Với B-52 ở U-ta-pao, ta rất khó phán đoán, vì khoảng cách gần, không cần tiếp dầu nên không bị lộ lực lượng.
Đến 16 giờ 30 phút, thu tin viên Lê Văn Nhàn nghe được các tốp máy bay B-52 đang được tiếp dầu trên bầu trời đảo Pô-rô (đông nam Phi-líp-pin). 17 giờ, các tốp B-52 liên lạc với sở chỉ huy tiền phương trên không. Đồng chí Lê Văn Nhàn là người tìm ra mạng trinh sát thời tiết RF4C và cũng là người tìm ra mạng của Sở chỉ huy tiền phương trên không của không quân Mỹ. Tất cả các loại máy bay chiến thuật, chiến lược, trinh sát… trước khi vào làm nhiệm vụ đều phải báo cáo và xin phép Sở chỉ huy tiền phương, và tính từ đó cho đến khi bước vào oanh kích là khoảng 2 giờ 30 phút. Có nghĩa là, trận đánh vào Hà Nội, Hải Phòng sẽ bắt đầu vào lúc 19 giờ 30 phút. Lê Văn Nhàn còn báo cáo là các tốp B-52 đã đến điểm G (đảo Cồn Cỏ và Vịnh Bắc bộ).
Ban chỉ huy Đại đội 2 báo cáo cấp trên các tốp B-52 đang bay ngoặt lên phía Bắc.
Đại đội huy động toàn bộ thu tin viên sóng cực ngắn lên máy đón chờ B-52. Khi B-52 vào đến vùng trời Việt Nam, xin phép cấp trên của chúng vào công kích mục tiêu, đại đội điện báo lên trên kịp thời.
19 giờ 45 phút, cả Hà Nội rung chuyển vì bom B-52. Những tia chớp tên lửa dọc ngang xé toạc bầu trời. Đạn nổ, bom nổ, đất trời rung chuyển, căn hầm ngầm dưới mặt đất của Ban chỉ huy đại đội 2 cũng rung lên bần bật, ai cũng cảm thấy ngạt thở. 20 giờ 13 phút, các trinh sát nhận được tin chiếc B-52 đầu tiên bị bắn hạ. Đêm đó, quân và dân ta đã bắn rơi 3 B-52 của Mỹ. Ai nấy đều vui mừng khôn xiết. Đêm 20 rạng ngày 21-12, ta hạ 7 B-52. Đêm 26 rạng này 27-12, 8 B-52 nữa bị ta bắn hạ... Tính đến đêm 29-12 rạng ngày 30-12, sau 12 ngày đêm kiên cường chiến đấu, quân và dân ta đã bắn hạ 34 chiếc B-52 và nhiều máy bay chiến thuật khác. Từ 7 giờ ngày 30-12-1972, bầu trời Hà Nội, Hải Phòng thanh bình. Ních-xơn tuyên bố chấm dứt ném bom và đề nghị với Chính phủ ta nối lại đàm phán. Chiến dịch Linebacker II của Mỹ hoàn toàn thất bại. Ngày 27-1-1973, hiệp định Pa-ri được ký kết, Mỹ chịu rút toàn bộ quân đội khỏi Việt Nam…
Đã 43 năm kể từ trận “Điên Biên Phủ trên không”, 120 cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 trinh sát kỹ thuật ngày ấy giờ đây người còn, người mất. Các đồng chí Phang, Phẩm, Dũng, Lới, Thuần, Hợp…không còn để hưởng niềm vui khi đại đội được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Kể với tôi câu chuyện này, Đại tá Trần Văn Tụng nói rằng, đối với cuộc chiến đấu của dân tộc thì mặt trận chiến đấu của Đại đội 2 các ông vô cùng nhỏ bé, diễn ra âm thầm, lặng lẽ ở hậu phương. Tuy nhiên, đấy là cuộc đấu trí quyết liệt giữa ta-những thanh niên nông thôn trẻ tuổi, những cán bộ ngoại giao mới vào nghề-với các chuyên gia thông tin điện tử hàng đầu của Mỹ. Đó còn chứng tỏ một thế hệ người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh không chỉ thắng địch bằng lòng dũng cảm, chí căm thù, mà còn là sự thông minh, nhanh trí, nắm bắt nhanh khoa học kỹ thuật, biết tận dụng sự sơ hở, chủ quan của đối phương để bắt bài, phục vụ cấp chiến lược ra đòn quyết định.
HỒNG SƠN
Kỳ 1: Chọc thủng bức màn bí mật