QĐND - Từ trước tới nay tôi đã được nghe kể nhiều về sự vất vả và sức chịu đựng của những người lính quân khí. Ấy vậy mà khi được trực tiếp trò chuyện, được trực tiếp chứng kiến, nhiều điều vẫn khiến tôi hết sức ngỡ ngàng. Một sự ngưỡng mộ, mà tôi chẳng biết viết gì, nói gì và bắt đầu từ đâu về họ - những người coi sự vất vả, nhọc nhằn thường ngày là một phần của cuộc sống...

Giọt mồ hôi in trên quả đạn

Đưa chúng tôi đi vào khu kỹ thuật, Đại tá Nguyễn Văn Tuấn, Chủ nhiệm Kho KV1 hóm hỉnh:

- Các anh có thấy cây cối xanh tốt không?

Chưa để chúng tôi trả lời, anh Tuấn đã khẳng định:

- Nghề của chúng tôi phải gắn bó mật thiết với rừng, xa khu dân cư. Thứ nhất là đáp ứng yếu tố bí mật. Thứ hai tránh thiệt hại cho nhân dân nếu có những tình huống rủi ro không may xảy ra. Thứ ba, cây rừng sẽ giảm độc hại cho những người tiếp xúc với súng đạn, thuốc nổ. Bởi vậy nên mới có câu ví von “Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, thì ngành quân khí mới ra khỏi rừng”.

Quả thật nơi chúng tôi dừng chân tại Trạm sửa chữa cũng có hơn chục cây táu to, xòe tán rộng. Công việc của một ngày mới được Thiếu tá Nguyễn Phú Cường, Trạm trưởng khái quát ngắn gọn:

- Hôm nay, cán bộ, nhân viên của trạm sẽ bảo dưỡng 2 lô đạn.

Thấy tôi nhẩm tính số người và khối lượng đạn, anh Cường giải thích:

- Cán bộ, chiến sĩ làm theo dây chuyền, trong đó có rất nhiều nguyên công và tất cả khối lượng đạn đều phải qua tay mọi người trong trạm.

Tập huấn công tác bảo dưỡng đạn pháo tại trạm sửa chữa.

Khi khẩu lệnh của người chỉ huy bắt đầu, tôi quan sát kỹ hoạt động của tổ bảo dưỡng số 1. Việc đầu tiên là những hòm đạn pháo được bộ phận cần vụ bốc xếp mang tới, Trung úy quân nhân chuyên nghiệp (QNCN) Bùi Đức Anh mở hòm kiểm tra số lượng, chất lượng bề mặt quả đạn, sau đó chuyển đạn lên giá; tiếp theo Thiếu úy QNCN Trần Ngọc Long cạo mỡ, lau sạch. Rồi đến lượt Thượng úy QNCN Nguyễn Chí Hữu tháo nắp phòng ẩm, dùng dụng cụ kiểm tra bề mặt thuốc nổ. Khi anh Hữu thực hiện động tác, tôi nhìn trên lớp mạ thép thân quả đạn thấy rõ những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt anh. Sau một phút suy nghĩ, anh Hữu vui mừng thông báo:

- Thuốc khô, bề mặt cứng, đạt cấp 2.

Thiếu tá QNCN Bùi Văn Mạnh, Tổ trưởng Tổ bảo quản số 1 lệnh cho các số:

- Tiếp tục thực hiện các bước còn lại.

Các thành viên trong tổ tẩy gỉ thân đạn, lau sạch, lau khô, sơn vá đầu đạn, in phục hồi ký hiệu, quét gôm... Trong lúc nghỉ giải lao, qua câu chuyện với Thiếu tá QNCN Bùi Văn Mạnh, chúng tôi được biết, tất cả các công đoạn trong việc bảo dưỡng không cho phép sai sót. Đặc biệt đối với những lô đạn có "thâm niên" cao, thì quá trình bảo dưỡng phải cẩn thận, tỉ mỉ hơn nhiều lần. Kiểm tra chất lượng thuốc nổ phải có ba ý kiến “hội chẩn” trở lên. Bởi vậy, nhiều người trong đơn vị vẫn thường gọi những người bảo quản, sửa chữa đạn là “bác sĩ áo xanh”.

Chuyện ở trạm sửa chữa được Đại tá Nguyễn Văn Tuấn giải thích:

- Công việc vất vả, nguy hiểm, độc hại không riêng của bộ phận trạm sửa chữa mà được “chia đều” cho tất cả các bộ phận trong đơn vị. Công việc đó phải thực hiện nghiêm túc theo các quy định của ngành, tạo thành một quy trình bảo quản, bảo dưỡng liên hoàn, khép kín từ việc kiểm tra độ ẩm, thông gió, chống mối mọt, đánh giá chất lượng thuốc nổ đến công tác thiêu hủy đạn cấp 5... Toàn bộ đơn vị phải quán triệt tốt phương châm: “Cẩn thận bao nhiêu cũng chưa đủ, sơ sảy một ly đã quá thừa”.

Bài học mọi người trong đơn vị luôn ghi nhớ, được anh Tuấn nghẹn ngào kể cho chúng tôi nghe. Đó là vụ nổ xảy ra ngày 27-12-1968 ở Phân kho Đồng Bò, Kho 370 (tên gọi bí mật của Kho KV1 lúc đó) làm 19 cán bộ, chiến sĩ đang thực hiện nhiệm vụ bảo quản, bảo dưỡng súng, đạn hy sinh. Thi thể của các anh, các chị đã hòa vào đất. Vụ nổ làm vẹt một góc núi. Rất may phân kho có nhiều cây xanh nên không gây thiệt hại về tài sản và tính mạng của nhân dân. Nơi xảy ra vụ nổ, hiện đơn vị đã xây dựng nghĩa trang liệt sĩ Đồng Bò và phát động phong trào thi đua xung kích với chủ đề “nhớ ơn các liệt sĩ” với các chỉ tiêu cụ thể trong xây dựng nhà kho, trạm sửa chữa.

Từ phong trào thi đua xung kích năm nào và cho tới hôm nay những người lính Kho KV1 vẫn luôn rèn tay nghề, cẩn thận, chu đáo trong công việc, coi súng đạn như người thân yêu ruột thịt của mình. Những thành tích và sự cố gắng ấy của cán bộ, nhân viên Kho KV1 đã xây đắp nên truyền thống đơn vị hai lần được Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Vượt khó bằng tình yêu nghề nghiệp

Lúc tôi đang có mặt ở Kho KV1, nghe tin Thiếu tá QNCN Triệu Mạnh Tưởng, nhân viên Đội tu bổ vừa hoàn thành nhiệm vụ thì bị ngất do tụt huyết áp. Chúng tôi tới nơi, thấy anh Tưởng vẫn còn rất yếu, vậy mà anh quả quyết với Đại tá Lê Văn Núi, Chính trị viên kho:

- Em khỏe rồi, mai đi làm, nằm ở nhà nghĩ tới công việc còn dang dở em thấy sốt ruột lắm...

Chúng tôi cùng các đồng chí trong Ban chấp hành công đoàn cơ sở đơn vị tới thăm Trung tá Phạm Văn Ngọ, Trợ lý kỹ thuật bị ung thư cột sống không đi lại được. Suốt buổi trò chuyện với chúng tôi, anh Ngọ chỉ có mong muốn rất bình dị: Được lên lớp cho đội ngũ thợ trẻ về công tác bảo đảm an toàn khu kỹ thuật... Hay Thiếu tá QNCN Cao Thị Khánh, nhân viên Trạm sửa chữa, khi biết mình có khối u trong người, trước khi đi chữa bệnh dài ngày chị xin chỉ huy làm nốt phần việc của mình trong tháng...

Chuyện của các anh, các chị chúng tôi gặp và một số trường hợp khác bị bệnh hiểm nghèo, hiếm muộn, di chứng cho con ở Kho KV1 dù không nói ra, nhưng mọi người đều biết, nguyên nhân là do môi trường lao động độc hại gây nên. Nhưng những người lính ấy coi điều đó như một tai nạn nghề nghiệp rất đỗi bình thường. Không chút sợ hãi, không phút băn khoăn, họ dồn tâm, dốc sức lo toan cho công việc và động viên giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn của cuộc sống.

Kho KV1, Cục Quân khí (TCKT) được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ nhất năm 1973, lần thứ 2 năm 2000; được tặng thưởng Huân chương Quân công (1984), Huân chương Chiến công Hạng nhất (1999), Hạng nhì (1954, 1974) và Hạng ba (1967, 1970)...

Những cố gắng của cán bộ, chiến sĩ nơi đây chúng tôi biết rõ hơn khi tới khu tập thể gia đình quân nhân. Hôm đó đoàn công tác gặp vợ chồng Thiếu úy QNCN Nguyễn Đình Quân, nhân viên Đội cần vụ bốc xếp và Thiếu úy QNCN Nguyễn Thị Bích Liên, nhân viên nấu ăn Đội cảnh vệ đang cuốc đất trồng rau trước cửa gian nhà tập thể. Mảnh đất chỉ rộng 20m2 mà anh chị phải thâm canh tới mấy loại rau để giảm chi phí. Qua câu chuyện với vợ chồng anh Quân chúng tôi được biết: Hiện nay có gần 100 hộ là cán bộ, nhân viên đang ở tại khu tập thể của đơn vị. Các hộ này đều không có điều kiện kinh tế mua đất, làm nhà riêng.

Tò mò, tôi hỏi thu nhập của vợ chồng anh chị.

Chị Liên khẳng định:

- Tổng thu nhập của cả hai vợ chồng hơn 7 triệu đồng/tháng

- Mỗi tháng anh chị để dành được bao nhiêu? Tôi hỏi.

Anh Quân thản nhiên trả lời:

- Trung bình khoảng 500.000 đồng. Tuy nhiên, cũng có tháng không tiết kiệm được đồng nào vì mừng đám cưới hay phải về quê nội, quê ngoại (quê vợ chồng anh chị ở Yên Mỹ, Hưng Yên).

Chị Liên vào nhà lấy ra quyển sổ nhỏ đưa cho tôi xem và niềm nở:

- Đây là sổ chi tiêu của vợ chồng tôi từ đầu năm tới nay.

Tôi giở tới phần thu và chi tháng 6. Lướt qua cũng đủ cho tôi biết với mức chi tiêu ấy, cuộc sống hằng ngày của gia đình anh chị hết sức đạm bạc. Cho dù là vậy, nhưng ở cột "tổng cộng", con số dừng lại cũng không dưới 6 triệu đồng. Tôi nhẩm tính, nếu mức thu nhập như hiện tại và với giá đất thời điểm bây giờ ở khu vực xung quanh Kho KV1 khoảng trên dưới 2 triệu đồng/m2 thì vợ chồng anh Quân dù có gắng sức tiết kiệm cũng chẳng biết tới bao giờ mới có thể "sở hữu" được vài chục mét vuông đất...

Khó khăn là vậy mà chị Liên vẫn lạc quan:

- Số tiền tiết kiệm chúng tôi dành dụm cho vào lợn đất, đến cuối năm được một khoản kha khá vừa sắm sửa cho mâm ngũ quả tươm tất và đưa các cháu về quê ăn Tết với ông bà nội, ngoại.

Chuyện của vợ chồng anh Quân được chúng tôi trao đổi với Ban chủ nhiệm kho KV1. Đại tá Lê Văn Núi, Chính trị viên kho lặng đi, giọng anh chùng xuống:

- Đó là tình trạng chung của hầu hết cán bộ, nhân viên đơn vị. Nhiều cặp vợ chồng, có con học đại học mà chưa mua nổi miếng đất, nhiều đồng chí về hưu vẫn phải đi thuê nhà. Lý do thật đơn giản, vì thu nhập từ đồng lương vừa đủ chi phí sinh hoạt. Dù anh em không đòi hỏi gì nhưng Ban chỉ huy kho cũng đang trăn trở tìm hướng giải quyết hợp lý nhất.

Tạm biệt cán bộ, nhân viên Kho KV1, trên đường trở về tôi cứ miên man suy nghĩ: Công việc và cuộc sống của người lính quân khí là vậy, họ lặng thầm cống hiến xây dựng đơn vị mà không một lời kêu ca, không một chút phiền muộn. Hình ảnh những con người tôi mới gặp lần đầu ấy sao như thân quen từ lâu. Họ thật gần gũi, bình dị mà đáng quý, đáng trân trọng biết nhường nào...

Bài và ảnh: Mè Quang Thắng