Huyền thoại về “Năm Dừa” (Kỳ 1)
Huyền thoại về “Năm Dừa” (Kỳ 2)


Huyền thoại về “Năm Dừa” (kỳ 3)
Tình yêu và cuộc sống

QĐND Online - Cuộc đời anh luôn cuốn theo phong trào cách mạng, tình yêu của anh cũng được bắt đầu từ những ngày trên chiến khu. Hòa bình lập lại, với nhiều cương vị mới, anh đều để lại trong lòng tổ chức, đồng chí hình ảnh một cán bộ mẫu mực, tràn đầy nhiệt tình cách mạng.

Tình yêu từ long núi

Những ngày ra cánh bắc Hòa Vang, đồng chí Bí thư Nguyễn Thanh Năm đã gặp cô giao liên xinh đẹp Nguyễn Thị Hạnh. Ban đầu, cô cảm phục anh bởi lòng dũng cảm, tài xuất quỷ nhập thần, ra vào vùng địch như vào chỗ không người, là cán bộ cấp trên, được Tỉnh ủy tin cậy giao trọng trách phụ trách cánh Bắc Hòa Vang. Còn anh mến cô không chỉ xinh đẹp mà còn thông minh, gan dạ. Hai người cách nhau gần một giáp. Anh biết chị đẹp gái và được nhiều bạn trai quan tâm. Nhưng vì yêu cách mạng, làm cách mạng nên Hạnh chưa nghĩ tới chuyện tình duyên. Vậy nên, gặp nhau, họ chỉ trao đổi công việc là chủ yếu.

Tình yêu của hai người không biết bắt đầu từ đâu. Một hôm, chị đưa anh xuống địa bàn. Trong lúc giải lao, anh tâm sự: “Mình đã lớn tuổi, mồ côi từ nhỏ, thiếu thốn tình cảm đủ bề. Bây giờ chỉ mong có người con gái nào đó thương yêu”. Chị im lặng. Anh liều lĩnh cầm bàn tay nhỏ nhắn và ấp úng… “xin cưới em làm vợ”. Cô giao liên ngước cặp mắt trong veo nhìn anh, khẽ gật đầu. Người cán bộ từng vào sinh ra tử, không biết sợ là gì vẫn run bần bật trước tình cảm của người yêu. Anh chỉ dám nắm chặt tay chị một lúc rồi lên đường. Có sự đồng tình của tổ chức, sau tết Mậu Thân, lễ cưới được tiến hành. Trong ngày đại hỷ, chú rể phát biểu: “Sống cũng yêu, chết cũng yêu”. Chiến tranh vẫn ác liệt. Cuộc chiến đấu giữa cái sống cái chết luôn hiển hiện từng giờ. Tình yêu họ dành cho nhau vẫn lớn theo ngày tháng.

Sau đó, theo yêu cầu nhiệm vụ, anh phải đi xa. Hôm anh đi, đơn vị không có gì để tổ chức liên hoan. Mọi người rủ nhau đi soi ếch đem về nấu cháo tiễn anh lên đường. Nhưng tâm trạng anh lúc bấy giờ chỉ cần gặp chị. Hai người bịn rịn chia tay. Anh lên đường vào Nam chiến đấu. Vợ chồng từ đó bặt tin nhau.

Một hôm về Đà Nẵng chở bà Phụng Ký, anh lên Xuân Thiều và nghe cơ sở báo chị vừa bị bắt tối hôm qua. Tâm trạng hụt hẫng, anh quay về thành phố. Hiệp định Pari ký kết, danh sách trao trả không có tên chị. Nhưng anh tin người vợ yêu quý không thể chết… Trái tim người cán bộ ngổn ngang trăm mối. Phần lo lắng người vợ, người đồng chí bây giờ ở đâu. Anh không dám nghĩ đến tình huống địch thủ tiêu chị trong tù, nhưng hình ảnh ấy cứ hiển hiện trong giấc mơ của anh từ ngày anh đọc không có tên chị trong danh sách trao trả tù binh. Phần lo nhiệm vụ sắp tới rất nặng nề. Theo sự phân công, anh trở lại chiến khu làm công tác chuẩn bị, khi có thời cơ về giải phóng Đà Nẵng. Những ngày bận rộn ấy, anh nghe tin chị được trao trả ở Lộc Ninh. Hai người lại gặp lại nhau trong niềm vui gần tới ngày chiến thắng.

Núi rừng Trà My bâng khuâng chứng kiến niềm hạnh phúc của anh, khi chị thủ thỉ bên tai “mình sắp có con”. Anh ôm chầm lấy người vợ yêu quí và…gửi mẹ con ở lại cùng đồng đội. Nhiệm vụ của anh phải nhanh chóng về thành phố để chuẩn bị giải phóng Đà Nẵng. Bụng mang dạ chửa, chị tham gia chiến đấu bảo vệ chiến khu. Trong một đêm mưa rét, cô con gái Thu Thuỷ cất tiếng khóc chào đời tại căn cứ Hòn Tàu. Cháu là kết quả của một tình yêu đẹp không lời hẹn ước.

Anh vẫn là “chiến sỹ”

Sau ngày 29 tháng 3 năm 1975, hòa cùng đoàn quân tiến vào tiếp quản thành phố Đà Nẵng, đồng chí Nguyễn Thanh Năm được Tỉnh ủy phân công làm Phó chủ nhiệm Uỷ Ban kế hoạch. Do điều kiện tham gia cách mạng từ nhỏ nên không được học nhiều, nhưng anh tổ chức thực hiện rất tốt. Tỉnh ủy giao nhiệm vụ anh dẫn thanh niên Đà Nẵng lên Trung Hà, Đại Lộc khai hoang phục hóa. Cánh tay một thời cầm súng giết giặc, bây giờ phồng rộp lên sau những ngày phá đá, phát cỏ, chặt cây…

Sau khai hoang đến thuỷ lợi cũng… giao cho Năm Dừa. Người thì đã có; đá để lấp đập có thể lấy ở Phước Tường do Mỹ phá trước đây, lấy ra làm đường; thép gai để đan lưới thả đá cử người thu gom trong dân; yêu cầu các huyện Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc không để nước sông chảy xuống Đà Nẵng. Và cuối cùng là kiếm ở đâu ra 40 đến 50 ngàn cây tre để làm bè kéo. Trên địa bàn tỉnh, bom Mỹ đã cày xới không còn một cây. Suy đi tính lại, anh quyết định tận dụng thùng phuy địch dùng chắn đạn ở sân bay, tổ chức xuống biển thu dây cáp về chăng ngang bờ; đóng cọc, dìm thùng phuy xuống để thả đá. Khoảng nửa tháng, công việc hoàn thành, vượt kế hoạch đề ra; kịp thời đưa nước lên đồng phục vụ nông nghiệp. Nhiều người khâm phục bảo “chỉ có Năm Dừa mới làm vậy”.

Sau đó, anh được đi học bổ túc văn hóa và ra Hà Nội học lí luận tại Học viện Nguyễn Ái Quốc. Đồng chí Nguyễn Thanh Năm từng đảm nhiệm các cương vị Trưởng Ban Nông nghiệp tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng, Giám đốc Sở Nông nghiệp, Công ty nông sản thực phẩm.

Khi về hưu, ông thường tâm sự với các con: “Những công việc ba làm trong chiến tranh đã để lại kỷ niệm trong tụi con về người cha chiến đấu dũng cảm, được nhân dân yêu thương, đồng bào bao bọc, anh em mến phục. Ba nói lại chuyện đó cho tất cả các con nghe và kết nối đối với cuộc đời mình. Trong chiến đấu có gian khổ, có mưu trí và dám hy sinh quyền lợi cá nhân của mình và đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên thì mới dám hy sinh như vậy. Cho nên tụi con có làm gì cũng nên đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích cá nhân để chiến đấu công tác. Mong mỏi của ba trước khi đi xa là như vậy!”.

Bây giờ, con người huyền thoại ấy đã về cõi vĩnh hằng, nhưng tên tuổi và sự cống hiến của ông cho quê hương thì vẫn còn mãi với thời gian. Bài viết này, tác giả thành tâm cầu chúc vong linh ông bất tử dưới lòng đất mẹ...

Nguyễn Sỹ Long