Đang là cán bộ xã… bỗng dưng thương binh Nguyễn Văn Khiến ở xã Tân Dân, huyện Phú Xuyên (Hà Nội) xin nghỉ để làm hướng dẫn viên Bảo tàng chiến sĩ cách mạng bị bắt tù đày ở đảo Phú Quốc. Ông coi  đó là việc làm tri ân các đồng đội của mình đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc...

Những năm tháng ở tù

Nguyễn Văn Khiến sinh trước ngày Cách mạng Tháng Tám thành công một năm, vào quân ngũ mùa mưa năm 1967. Lúc này, chiến trường miền Nam đang cần chi viện, chàng thanh niên vùng đất Cầu Giẽ tình nguyện vào chiến trường B2 tham gia đánh giặc cùng đồng bào Nam Bộ. Tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 ở đơn vị pháo binh ĐKZ 75mm, ông dự nhiều trận đánh xe tăng địch trong đội hình Trung đoàn 268 trên địa bàn Sài Gòn – Gia Định. Trong một lần đi công tác ở Củ Chi,  bị địch phát hiện, đuổi bắn, ông bị gãy chân trái và tay phải. Đạn hơi cay M79 của địch làm hai mắt của ông mờ đi từ đó.

Ông Khiến (bên trái) đang giới thiệu các hiện vật với khách thăm bảo tàng.

Địch bắt, tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì, chúng đưa ông về nhà giam Phú Tài ở Quy Nhơn. Tháng 8 - 1970, chúng lại đưa ông ra đảo Phú Quốc lĩnh án tù khổ sai. Những tháng năm ở nhà tù Phú Quốc, không một hình thức tra tấn nào ông không phải trải qua. Chúng hết đánh đập, rồi lại kẹp tay, chân ông… Cứ sau mỗi trận đòn ông như từ cõi chết trở về, được đồng đội chăm sóc, động viên nên dần bình phục. “Tôi không thể chết, biết bao đồng chí, đồng đội của tôi chịu đựng được thì tôi cũng chịu đựng được. Ngày ấy, tôi và mấy anh em ở cùng quê như ông Dư, ông Mộ, ông Thắng… tự nhủ với nhau: Phát huy truyền thống của người Hà Tây, không ham sống, sợ chết. Quyết giữ vững lập trường, giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”.

Nói rồi ông cho tôi xem những vết kẹp ở các đầu ngón tay mà giờ còn hằn in dấu vết. Những lằn roi quất ngang dọc lưng và bụng ông, đã qua ngần ấy thời gian, mà vẫn còn đó. Ông kể về hình ảnh ông Vũ Văn Tằng (quê ở Nam Định) bị địch tra tấn: “Chúng đã dùng dùi cui, búa, kìm vặn từng chiếc răng của ông Tằng. Hai hàm răng bị đập như người ta lấy búa phá khối bê tông, nhưng ông Tằng vẫn kiên quyết không cho chúng lấy một cái răng nào. Ông mím chặt miệng, nuốt từng chiếc răng vào bụng và ngất đi”. Rồi ông Vũ Đình Kỳ, người Hà Nam, chúng cũng dùng búa, đập nát chân tay ông như người ta đập mía. Đau đớn là thế nhưng ông Kỳ cũng kiên quyết không khai. Và còn nhiều, nhiều cảnh tượng mà cuộc sống bình thường chúng ta hôm nay không thể tưởng tượng hết được.

Sau Hiệp định Pa-ri năm 1973, ông và những đồng đội được trả tự do. Sau bao nhiêu năm mới được trông thấy ánh mặt trời, trông thấy lá cờ Giải phóng, được những cô dân quân bờ bên kia sông Bến Hải dìu qua cầu, ông đã không kìm được nước mắt.

Tri ân đồng đội

Trở về sau cuộc chiến với những vết thương trên thịt da, ông lao vào tham gia công tác xã hội. Ông từng đảm nhiệm các cương vị Phó chủ tịch Hội Nông dân xã, Bí thư Đảng ủy xã Tân Dân… nhưng khi có lời mời, ông đã xin nghỉ công việc của người cán bộ xã để làm hướng dẫn viên  bảo tàng. Ông coi đó là việc làm tri ân các đồng đội của mình đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ông tâm sự: “Ban đầu tôi phải đi xe đạp gần 10km để đến làm việc, tuy vất vả nhưng được đứng trong bảo tàng, giới thiệu cho khách tham quan về những kỷ niệm của đồng đội mình chốn ngục tù, thật không còn việc làm nào “đáng làm” hơn”.

Kể về công việc của mình, ông cho biết: “Ban đầu mới lập bảo tàng, lượng khách đến còn ít, sau một thời gian, khách tăng đột biến, nhất là vào các ngày lễ, ngày nghỉ. Khách đến đây không chỉ là những đoàn cựu chiến binh mà còn rất nhiều đoàn học sinh, sinh viên đến tham gia tìm hiểu. Một mình tôi nhiều khi không làm nổi, phải huy động thêm anh em khác trong Hội Cựu chiến binh”.

“Có những người chưa từng trải qua “địa ngục” trần gian, nhất là các cháu học sinh, sinh viên. Khi nghe tôi kể và xem những hiện vật nhiều cháu còn chưa tin. Tôi đã mời các nhân chứng tới để các em được “mắt thấy, tai nghe, tay sờ”. Nhiều sinh viên đã khóc khi xem những vết rạch trên bụng của các chiến sĩ mà quân thù gây ra, hoặc xem hình ảnh chiến sĩ của ta nuốt cờ Đảng vào bụng. Rồi những tấm áo còn bê bết máu, những chiếc răng còn sót lại… là hiện vật vô giá, bằng chứng tố cáo tội ác của kẻ thù và giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau” - ông kể.

Chia tay ông, tôi xin được vào thắp nén hương cho những người đã khuất. Chiến tranh đã lùi xa nhưng thời oanh liệt ấy của cha anh sẽ không bao giờ mờ nhạt trong trái tim bao thế hệ mai sau nhờ những “hướng dẫn viên” như ông Khiến.

Bài và ảnh: DUY THÀNH