QĐND - Trước khi bị Mỹ-ngụy bắt và đày ra Côn Đảo (tháng 10-1965), tôi là người hoạt động bí mật, hợp pháp tại thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, thuộc tổ chức “Hội Liên hiệp thanh niên, học sinh, sinh viên giải phóng Trung-Trung Bộ”. Tổ chức gồm những thanh niên, học sinh, sinh viên sống ở đô thị, có tinh thần yêu nước, sẵn sàng tham gia cách mạng. Năm đó, tôi đang học lớp Đệ nhị (lớp 11 bây giờ) thì bị bắt vào chiều 28-10-1965.
Chiều ấy, mấy chiếc xe chở những cảnh sát, sĩ quan, hạ sĩ quan quân đội ngụy do tên Thiếu tá Nguyễn Ngọc Nghĩa, Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Tín cầm đầu chạy thẳng vào Trường Trung học Trần Cao Vân. Xuống xe, chúng cho gọi toàn thể học sinh các lớp đang học ra sân trường, xếp thành hàng theo từng lớp, còn chúng vây quanh bên ngoài. Cổng trường đóng lại, có người mang súng đứng giữ. Trước mấy trăm học sinh, Nguyễn Ngọc Nghĩa nói đủ điều với giọng hằn học, đe dọa: “Gần đây ở một số nơi trong tỉnh Quảng Tín, xuất hiện nhiều hoạt động của Việt Cộng, mà trong trường Trần Cao Vân có những học sinh tiếp tay cho chúng; có học sinh nuôi giấu Việt Cộng trong nhà...”. Nói xong Nguyễn Ngọc Nghĩa gọi tên đại úy đọc danh sách và bắt 5 học sinh, trong đó có tôi đưa ngay lên xe chở đi. Chiều hôm đó chúng còn bắt thày giáo Nguyễn Lương Ý đang dạy học tại Trường Trung học Nguyễn Dục và đến nhà bắt một vài thanh niên, học sinh khác... Tất cả đều cùng tham gia hoạt động trong tổ chức với tôi. Sau này tôi mới biết là tổ chức đã bị lộ do có kẻ phản bội chỉ điểm.
 |
Tác giả trở lại thăm và chụp ảnh kỷ niệm tại hầm đá Trại 3-nơi ông bị giam cầm năm 1968. Ảnh do tác giả cung cấp |
Chúng hớn hở như phá vỡ được một tổ chức quan trọng của ta trong thành phố, nên ngay ngày hôm sau (29-10-1965) tên Chuẩn tướng ngụy Hoàng Xuân Lãm, Phó tư lệnh Vùng I chiến thuật từ Đà Nẵng hăm hở vào Tam Kỳ để sáp mặt chúng tôi. Lãm hăm dọa: “Tiếc là bọn bay chết còn trẻ quá...”. Sau đó Nguyễn Chánh Thi, Thiếu tướng, Tư lệnh Vùng I tiếp tục vào. Nguyễn Chánh Thi gặp số bị bắt, tra hỏi thầy Nguyễn Lương Ý và vài thanh niên. Thi chăm chăm vào thày Ý và hung hăng vung tay đánh thày! Xong rồi, Thi dặn dò Nguyễn Ngọc Nghĩa điều gì đó...
Chúng tôi bị chúng tra tấn hết sức dã man, thân thể như bầm nát!... Khai thác, tra tấn hết chỗ này, đưa qua chỗ khác, từ phòng khai thác Ty Cảnh sát tỉnh Quảng Tín, đưa sang phòng Nhì (nằm trong Tòa hành chánh tỉnh) rồi Ty An ninh quân đội (nơi chúng nhốt tù dưới hầm bê tông tối om).
Mấy tuần lễ sau, chúng đưa riêng thày Nguyễn Lương Ý ra Đà Nẵng và hèn hạ bắn chết thày cùng người em ruột là Nguyễn Lương Y, một trí thức tài giỏi đang bí mật hoạt động đơn tuyến trong một tổ chức Cách mạng ở Đà Nẵng. Đáng nói, Nguyễn Lương Y lúc ấy làm thư ký riêng cho tên tướng ác ôn Nguyễn Chánh Thi. Khi thày Nguyễn Lương Ý bị lộ và bị chúng bắt ở Tam Kỳ, Thi liền nghi ngờ đến người em Nguyễn Lương Y, nên bắt luôn rồi sát hại! Chúng đưa hai anh em lên ô tô đến một nơi hoang vắng để bắn, vùi thi thể hai chiến sĩ cách mạng ở Nam Ô (phía nam đèo Hải Vân) rồi hô lên là do Việt Cộng giật mìn để chối tội.
9 người còn lại bị giam ở nhà lao Quảng Tín và đưa ra tòa án quân sự. Trước viên chánh án và những thẩm phán, luật sư... cùng một số người dân có mặt hôm đó, chúng tôi phản đối bản án ghi là “tội phản nghịch” mà lớn tiếng tự nhận mình là “những học sinh yêu nước”. Chúng kêu án tôi 10 năm khổ sai, 5 năm quản thúc.
Ngày 22-11-1966, tôi bị còng tay từ nhà lao Thừa Phủ đưa lên ô tô chở vào giam ở nhà lao Chợ Cồn, Đà Nẵng. Một tháng sau, chúng lại đưa tôi xuống còng chân nằm dưới hầm tàu thủy, chạy vào giam nhà lao Chí Hòa và ngày 4-2-1967 (ngày cận Tết Đinh Mùi) cùng mấy trăm tù nhân khác ở đây lại xuống hầm tàu thủy, còng chân đày ra Côn Đảo.
Từ hầm tàu, chúng tôi bị lùa ngay vào phòng giam, không cho tắm giặt, mặc dầu nằm dưới hầm tàu quần áo đều rất dơ bẩn! Mấy ngày sau chúng phân từng nhóm tùy theo mức án để bắt làm khổ sai ở bên ngoài (nếu án nhẹ) như Sở Củi, lên núi đón củi; Sở Lò Vôi, lấy san hô hầm vôi; Sở Ruộng; Sở Vệ Sinh; Sở Lưới; Sở Điền Viên; Sở Đông Phong v.v.. hay làm khổ sai bên trong các trại giam (án 10 năm trở lên) như Sở Tẩy, Hỏa thực; Người có án tù chung thân hoặc tử hình thì cấm cố. Tôi và mấy anh em khác chúng đưa vào nhà bếp (Hỏa thực) trại 3. Công việc hằng ngày là bổ củi, nấu cơm, khiêng nước...
Trong bài này, tôi không kể cụ thể những cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và những cực hình ở “địa ngục trần gian” Côn Đảo trong suốt 7 năm tôi sống nơi đây, mà xin đi vào nội dung là chuyện học của người tù.
Biết rằng cách mạng sẽ thắng nhưng sẽ còn lâu dài, nên cần tận dụng những năm tháng trong lao tù để nâng cao kiến thức, nuôi dưỡng ý chí phục vụ cách mạng khi trở về, trong đó có việc học văn hóa mà bản thân tôi rất quyết tâm vì đang dang dở.
Tôi tìm sách Toán lớp 11 để tự học, ngoài ra học tiếng Pháp trong cuốn “Cours de langue et de civilisation Francaise” (ngôn ngữ và văn minh Pháp) của Thạc sĩ Mauret (tôi đang học ở trường ngày ấy). Ngoài thì giờ tự học, tôi học nhiều bài thơ cách mạng, nhất là thơ Tố Hữu do bạn tù khác thuộc lòng dạy lại. Cách học là bạn tù đó đọc trước mấy câu, tôi đọc lại nhiều lần để thuộc, cứ thế cho đến khi thuộc hết cả bài. Có bài thơ dài phải học nhiều đêm. Tôi cũng thích văn chương nên cố học thuộc lòng mỗi ngày 12 câu Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và hoàn tất 3.254 câu sau 8 tháng. Anh chị em tù chính trị phổ biến những bài gì cho nhau thì thường phải học thuộc lòng. Bởi không dễ gì viết được, mà nếu có trường hợp bí mật viết được ra giấy hoặc giấy tờ gì từ đường dây bên ngoài bí mật chuyển vào, cũng phải học thuộc lòng để thủ tiêu ngay, nhằm đề phòng nguy hiểm khi bọn trật tự lục xét. Chẳng hạn, vào đầu năm 1970, lá thư Trung ương Cục miền Nam gửi cho anh chị em tù các Nhà lao có đoạn: “...Đấu tranh phải có lý, đúng mức, đề phòng xốc nổi nhất thời” – tôi học thuộc lòng để phổ biến lại cho người khác, đây là phương án tối ưu nhất trong nhà tù khắc nghiệt của địch.
Sau giờ khổ sai ở nhà bếp về phòng giam, cửa song sắt khóa lại, tên trật tự canh gác ngồi sát bên ngoài nhìn vào phòng. Bên trong là tên trưởng phòng (tù thường án hoặc quân phạm). Nhà lao Côn Đảo cấm tù nhân không được ngồi nói chuyện với nhau từ 3 người trở lên, cấm dùng giấy bút viết bất cứ cái gì... Tôi tự học môn hình học không gian bằng cách coi sách giáo khoa tự nghiên cứu để hiểu, nhưng cần phải làm bài tập thì mới hiểu thấu đáo. Muốn làm bài tập phải vẽ ra giấy, nhưng giấy bút không có thì làm sao? Tôi tìm cách nhặt vỏ bao thuốc lá Bastoz của cai tù và trật tự đã vất bỏ, gở ra dùng mặt giấy trắng bên trong và tìm được một đoạn ruột bút chì, lấy giấy quấn làm cán bút để vẽ hình bài toán. Cái khó tiếp theo là làm sao vẽ được lên giấy mà bọn chúng không nhìn thấy? Để tránh cặp mắt của tên trật tự và trưởng phòng giam, tôi nằm ở góc khuất, xa chỗ chúng để lén vẽ. Có lúc không làm được như thế, tôi bèn trùm chăn kín đầu như nằm ngủ để vẽ hình chứng minh. Thuở đó đang ở tuổi thanh niên, cặp mắt còn sáng tỏ, nên dù trùm chăn, trong khi phòng giam thiếu ánh sáng, mà tôi cũng nhìn thấy được! Khi ấy cặp mắt phải điều tiết nhiều, rất dễ hại mắt! Bây giờ nhớ lại chính tôi cũng đã thấy ghê sợ!
Có những bài quá khó không dễ gì chứng minh, tôi nhớ đầu đề để ban ngày khi đi bổ củi, lúc đến phiên ngồi nghỉ, tôi dùng que tăm gỗ vẽ lại hình bài toán lên bắp da đùi tôi (da khô do ăn uống thiếu chất nên vẽ hình trông vẫn rõ) rồi nhìn vào đó tiếp tục suy nghĩ chứng minh. Tên trật tự coi làm khổ sai không thể biết gì vì chỉ thấy tôi ngồi đó, không giấy bút, nên chỉ hiểu là tôi đang ngồi nghỉ. Cứ vậy mà thời gian ở nhà bếp, tất cả bài tập ở mỗi chương, tôi đều chứng minh đến hết và tôi đã hoàn tất chương trình toán Hình học, Đại số và Lượng giác lớp 11 một cách nhuần nhuyễn.
Bỗng một ngày chúng đưa tôi đến phòng “chuyên môn” để đánh đập rồi còng chân, nhốt hầm đá 1 tuần, xong chuyển qua làm “Chỉ Tồn” ở trại 2 vì có kẻ xấu, mật báo cho chúng là tôi cổ vũ anh em trong phòng giam đấu tranh. Làm “Chỉ Tồn” (là làm khổ sai nhiều việc không cố định một việc gì). Lúc này tôi không còn học được nữa. Sau mấy tháng ở đây, chúng lại đưa tôi đến làm khổ sai ở Sở Ruộng, nhưng chưa đến một năm cũng bị chúng đưa ra phòng “Chuyên môn” đánh một trận, còng chân nhốt hầm đá rồi đưa trở lại “Chỉ Tồn” trại 3, vì không làm khổ sai tốt! Tháng 5-1970 chúng lại đưa ra “Chuyên môn” đánh chí tử mặt mày sưng húp vì cho tôi là người cầm đầu lãng công khi làm khổ sai. Tôi tự mổ bụng phản đối việc đánh đập này, nên tập thể bạn tù trong phòng đòi chúng đưa vào nằm bệnh xá chữa trị. Tháng 6-1970, chúng đưa tôi qua nhà bếp rồi “Chỉ Tồn” trại II. Cuối cùng đưa đến Sở Muối vì tôi bị bệnh phổi.
Đầu năm 1971, toàn trại II đấu tranh đòi xả còng, đòi được tắm giặt và đòi được ra ngoài sân tắm nắng mỗi buổi 1 giờ giành thắng lợi. Mỗi phòng cấm cổ trong trại như là một vùng giải phóng ngoài đời! Được tự do trong phòng giam, công khai học tập, chúng không thể cấm đoán và làm gì được. Bây giờ tập thể tổ chức học văn hóa. Nhiều lớp trình độ khác nhau từ tiểu học đến trung học. Trên sàn xi măng, nơi ngủ của người tù được chia ra từng khoảnh diện tích nhỏ cho từng lớp học. Không có giấy bút nên mỗi học viên khi ra tắm nắng tranh thủ nhặt mảnh san hô, gạch vụn vào làm phấn để viết. Người học cao hơn dạy cho người học thấp hơn. Tôi dạy toán lớp 9 và tự học toán lớp 12. Thời gian này tôi có điều kiện để trao đổi những bài toán khó với một vài bạn khác có cùng trình độ hoặc cao hơn tôi. Ngoài học văn hóa, mọi người sôi nổi học chính trị, do các đồng chí lãnh đạo có trình độ cao thuyết trình, nhất là dịp kỷ niệm những ngày lịch sử. Các anh em có năng khiếu cùng nhau biểu diễn văn nghệ và cố tìm giấy bút để làm báo tường. Mọi người rất hồ hởi, không khí thật vui tươi hào hứng.
Việc học trong nhà tù rất cực khổ nhưng ý chí học tập của anh em rất cao nên kết quả rất tốt. Một số đợt học tập trung như đợt học bản “Hiệu triệu” của Khu ủy Khu V, Di chúc của Bác Hồ, nội dung Hiệp định Pa-ri... tuy rất dài nhưng phần lớn anh em đều thuộc lòng.
Tháng 7-1973, tôi cùng mấy trăm bạn tù các trại ở Côn Đảo xuống tàu thủy cập bến Tân Cảng, rồi bị đưa đến nhà lao Hố Nai, Biên Hòa giam tiếp cho đến tháng 2-1974 mới được trao trả tại Lộc Ninh theo Hiệp định Pa -ri. Đây là đợt trao trả cuối cùng với 3.467 người, trong đó có 395 nữ.
Sau ngày miền Nam giải phóng hoàn toàn, nhờ kiến thức học được trong tù, tôi đã nộp đơn xin thi và thi đỗ tốt nghiệp Trung học phổ thông (Ban Toán) khóa ngày 12-9-1975 tại Hội đồng thi Tam Kỳ, Quảng Nam (khóa thi đầu tiên sau ngày giải phóng) và năm 1976 thi đỗ vào Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng hệ chính quy. Sau khi tốt nghiệp ra trường, tôi tiếp tục công tác góp phần xây dựng quê hương.
Tôi cảm thấy phấn khởi, tự hào về sự kiên trì vượt qua gian khó học tập trong nhà tù Mỹ-ngụy để ngày về tiếp tục đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
ĐỖ HÙNG LUÂN