Ngày xuân, tôi đã có một chuyến đi thăm biển đảo Tây Nam, nơi những cán bộ, chiến sĩ hải quân đang bảo vệ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Trên những hòn đảo giữa trùng khơi, mặt biển xanh tôi được nghe kể về những chuyện tình đẹp lãng mạn của anh Bộ đội Cụ Hồ.

Khởi hành từ đảo Phú Quốc lúc nửa đêm, tàu HQ 637 của Vùng E Hải quân chở chúng tôi cập cảng Thổ Chu (huyện đảo Phú Quốc, Kiên Giang) khi bình minh đang lên. Vượt 7km dốc đá, chúng tôi lên đến đỉnh đảo Thổ Chu, nơi Trạm S10 đứng chân. Khi ngang qua phòng ra đa, qua ô cửa sổ tôi bỗng thấy một cán bộ đang cắm cúi ghi vội những dòng chữ lên phong bì và dán tem. Khi tôi đứng lại trước cửa, người ấy, tức thượng úy Phạm Bá Hải cũng đã dán xong lá thư. Hải tâm sự:

- Thư gửi cho vợ đã viết sẵn từ đêm qua giờ dán lại, nhân dịp tàu ra, nhờ gửi vào đất liền để rồi gửi về nhà cho nhanh. Ở đảo, viết thư cũng phải chờ suốt cả tuần mới gửi được. Mãi một tuần sau thư mới vào tới đất liền và bắt đầu hành trình ra Bắc. Lâu lắm anh ạ! Có khi biển động kéo dài, cả tháng mới gửi được một lá thư cho vợ ở quê.

Ngồi trò chuyện với Hải, tôi được biết về chuyện tình cảm và gia đình của anh.

Hải quê ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ từ năm 1989 và sau đó ra Trạm S10 với chức vụ là trắc thủ ra đa. Những gian khó nơi hải đảo đã tôi rèn người chiến sĩ ấy vững vàng về năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị, ý chí sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Nhưng, Hải lại phải chịu thiệt thòi về tình cảm. Gia đình Hải ở quê nhà "nhắm" cho anh một người con gái ở cùng làng tên là Huệ. Theo sự giới thiệu của gia đình, Hải chỉ biết gửi gắm những lời thăm hỏi, những câu chuyện ở đảo xa qua những cánh thư. Những cánh thư giữa Hải và Huệ ngày một nhiều hơn. Lời yêu chưa từng trao, dù cả hai đều ngầm hiểu là đã “vương tơ lòng”. Chỉ ít tháng sau, hai gia đình quyết định tổ chức đám cưới cho hai người. Anh được đơn vị cho nghỉ phép để cưới vợ. Rời đảo, vào đất liền để về quê, trong Hải mang những cảm giác thổn thức, hồi hộp mong đợi giây phút gặp mặt vợ sắp cưới của mình như lần đầu tiên hẹn gặp người yêu.

Đám cưới của Hải và Huệ diễn ra trọn vẹn trong niềm vui của họ hàng, láng giềng. Thời gian nghỉ phép như bóng câu đưa, đôi vợ chồng trẻ chưa kịp đượm nồng, quen hơi thì Hải tiếp tục ra đảo làm nhiệm vụ. Một năm sau, trong một lần về phép, Huệ thủ thỉ với chồng ước mong một lần ra đảo thăm nơi ăn, chốn nghỉ, làm việc của chồng. Sau khi Hải đã xin phép thủ trưởng đơn vị, Huệ cùng chồng ra đảo Thổ Chu. Giờ nhắc lại những ngày đưa vợ ra đảo, Hải vẫn nhớ như in. Cảm động nhất vẫn là cảnh Huệ sốt sắng phụ giúp nhiều việc hậu cần, tăng gia sản xuất trong đơn vị. Người vợ trẻ tảo tần ấy được dịp thấu hiểu, tự hào về nhiệm vụ thiêng liêng, khó khăn của chồng nơi đảo tiền tiêu. Hai vợ chồng dắt tay nhau ngắm nhìn hoàng hôn đang choàng ôm biển đảo.

Giờ đây, đều đặn mỗi tháng, những lá thư giữa hai vợ chồng gửi cho nhau vẫn nồng nàn yêu thương. Lúc chia tay tôi, Hải nói:

- Giờ đây, khi đã thành vợ thành chồng, chúng tôi tiếp tục chăm sóc lo lắng cho nhau, yêu thương nhau mãi mãi đến suốt đời.

Hải là người công tác nhiều năm nhất ở trạm S10 với thời gian 17 năm. Tận tụy với công việc và có được niềm tin yêu, quý mến của cán bộ, chiến sĩ ở trạm, Hải đã nhận được nhiều bằng khen, giấy khen của cấp trên vì hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trung tâm xã đảo An Sơn, quần đảo Nam Du nhìn từ dốc Ông Tình.

Ở đảo Thổ Chu có một khu phố được người dân đất đảo gọi với cái tên rất thân thiện: Làng quân nhân. Làng có hơn 30 hộ gia đình. Đó là các cán bộ hải quân gắn bó với đảo, nên vợ nên chồng và xác định ở lại lập nghiệp trên đảo. Chúng tôi ghé vào thăm vợ chồng thiếu úy Vương Đình Giáp. Anh Giáp lập gia đình từ năm 2002. Chị Nguyễn Thị Xuân, vợ anh là một người cùng quê ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Năm 2006, hai vợ chồng quyết định ra đảo sinh sống. Giờ đây, họ đã có một con gái vừa tròn 4 tuổi. Gia đình anh chuẩn bị tươm tất, chu đáo để đón Tết trên đảo với cành đào, bánh chưng xanh và câu đối đỏ...

Gia đình anh Nguyễn Văn Be, cán bộ Hải quân đảo Thổ Chu là gia đình đầu tiên ra đảo sinh sống. Lúc anh công tác ở đảo, chị Đỗ Thị Doan, vợ anh đang là giáo viên tiểu học ở quê nhà tỉnh Thái Bình. Thời điểm ấy, phong trào "Thanh niên lập nghiệp giữ nước" được phát động, anh Be chấp nhận gian khổ, thử thách, quyết định đưa gia đình ở quê ra đảo Thổ Chu lập nghiệp. Ngày nhận được thư anh Be gửi về thuyết phục ra đảo sinh sống, lòng chị Doan rối như tơ vò. Thương và muốn gần gụi, chăm sóc cho chồng nơi đảo xa, nhưng chuyện chuyển ra đảo sinh sống, chị chưa bao giờ nghĩ đến. Ra đảo, trường lớp đâu để con cái sau này đi học đến nơi đến chốn? Láng giềng, thân thuộc đâu còn gần ai? Và mỗi đận ốm đau, bệnh tật chữa trị thế nào? Cuối cùng, với lời giải thích cặn kẽ, thuyết phục hợp lý của anh Be trong những lá thư gửi từ đảo xa về, chị càng ngày càng thấu hiểu quyết định của chồng và đồng ý ra đảo. Ngày đầu, chỉ huy đơn vị tạo điều kiện cho chị Doan ở tạm, rồi nhờ sự giúp đỡ của đơn vị, đồng chí, đồng đội, mái nhà của gia đình anh được dựng lên, giản dị và ấm cúng.

Làng quân nhân được hình thành từ ấy. Nhiều sĩ quan trẻ sau này cũng lập gia đình và lập nghiệp trên đảo. Những căn nhà ở làng quân nhân giờ đây dù không cao tầng nhưng đều khang trang, vững chắc. Những tổ ấm quân nhân đã thực sự trở thành hạt nhân điển hình, gương mẫu của xã đảo Thổ Châu.

Trong chuyến hành trình, tàu ghé quần đảo Nam Du (huyện đảo Kiên Hải, Kiên Giang), cách đất liền gần 200km. Chúng tôi đi bộ vượt dốc Ông Tình lên thăm trạm S00 thuộc Phân đội N51. Nhìn từ dốc Ông Tình ở bất kỳ phương hướng nào cũng hiện lên trong mắt chúng tôi cảnh sắc thiên nhiên đẹp và quyến rũ. Tôi hỏi nhiều người dân địa phương vì sao có dốc Ông Tình? Nhiều người không biết ai đặt tên từ bao giờ. Có người nói, nhờ con dốc đẹp và thơ mộng, nơi đã dệt nên bao tình cảm đôi lứa yêu đương, gây dựng bao tổ ấm hình thành trên miền đất đảo giữa trùng khơi này nên người dân địa phương gọi là dốc Ông Tình.

Trung úy Tôn Văn Tuấn (bộ phận ra-đa của trạm S00) sinh năm 1972. Trong một lần về phép thăm quê Hà Tĩnh, trên chuyến xe ngày giáp Tết, Tuấn gặp và quen với chị Lương Thị Hạnh, người ở huyện Đô Lương, Nghệ An, lúc đó còn là nhân viên bưu điện ở thị xã Rạch Giá (Kiên Giang). Cùng cảnh xa quê, họ đã nhanh chóng đồng cảm và nhen lửa yêu thương. Biết và quen nhau được 7 tháng, một lần chị Hạnh bất ngờ từ thị xã Rạch Giá ra đảo Củ Tron (quần đảo Nam Du) thăm Tuấn giữa mùa biển động. Nhận được tin Hạnh ra thăm, Tuấn mừng rỡ chạy một mạch từ trên trạm xuống cầu cảng Nam Du, khoảng cách dài hơn 3km, để đón Hạnh. Sau phút xúc động nhìn nhau không thốt nên lời, hai người thả bộ vượt dốc Ông Tình trong buổi chiều hoàng hôn. Lên đến lưng chừng dốc, hai người dừng chân. Khi nhìn xuống cầu cảng và xóm ấp trung tâm xã An Sơn, vẻ đẹp biển xanh với những thuyền ghe đậu san sát vào nhau, cảnh trung tâm xã đảo thấp thoáng những mái nhà dưới bóng dừa như cuốn hút tâm hồn Hạnh. Trong cô ào về một mơ ước tương lai. Sau chuyến ra đảo lần ấy, Hạnh quyết định xin nghỉ việc ở bưu điện và thi vào trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Kiên Giang. Khi gặp chúng tôi, cô giáo Hạnh tâm sự:

- Em nghĩ, để đến được với nhau, cùng xây dựng hạnh phúc cho tương lai, hoàn cảnh lúc đó bắt buộc một trong hai chúng em phải hy sinh nghề nghiệp. Em hiểu và đồng cảm với nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả của anh Tuấn nơi đảo xa nên chọn sự hy sinh về mình. Hơn nữa, những ngày ra thăm anh Tuấn, em thấy những em bé làng chài không được đến trường, trường học thì thiếu giáo viên. Trở về đất liền, em quyết định nghỉ làm và thi vào trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang, trở thành cô giáo để được chuyển ra đảo.

Giờ đây, Hạnh đã là giáo viên môn hóa sinh của trường trung học cơ sở An Sơn trên đảo Củ Tron và là đại biểu Hội đồng nhân dân xã đảo An Sơn. Tuấn và Hạnh chung một mái nhà nhỏ dưới chân dốc Ông Tình. Vợ ngày ngày đến trường dạy học dưới chân con dốc, chồng làm nhiệm vụ canh biển trời trên đỉnh cao nơi điểm đầu con dốc. Dù tổ ấm của họ chỉ cách trạm S00 quãng dốc dài 3km, nhưng vì nhiệm vụ, mỗi tuần, Tuấn chỉ có dành hai ngày để về nhà.

Xế trưa, tôi cùng đại tá Ngô Văn Phát, Chính ủy Vùng E Hải quân đến thăm, chúc Tết gia đình trung úy Đinh Công Văn, trạm phó quân sự trạm S00 (phân đội N51). Văn cũng là “nhân vật chính” của một chuyện tình lãng mạn. Vợ anh Văn là chị Von. Hai người cùng lớn lên ở một làng chài ven biển thuộc huyện Phú Mỹ, tỉnh Bình Định. Văn theo học ở Học viện Hải quân và được cấp trên phân công công tác ở quần đảo Nam Du. Duyên kỳ ngộ, gia đình chị Von chuyển ra quần đảo Nam Du tiếp tục nghề đánh bắt cá trên biển. Chị Von vẫn học phổ thông trung học ở quê nhà. Trong một lần nghỉ hè, chị Von ra đảo chơi, thăm gia đình và tình cờ gặp lại anh Văn, hai trái tim đã nhen lên tình yêu đôi lứa. Chị Von tốt nghiệp phổ thông trung học và thi đỗ vào ngành Công nghệ thông tin của Trường đại học Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học chị làm ở một công ty tin học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, đám cưới của anh Văn và chị Von đã được tổ chức nơi đảo xa. Giờ đây, đôi uyên ương trẻ ngày nào đã vừa có cháu trai đầu lòng và được đặt tên là Đinh Công Hải.

- Tên Hải của con là ý muốn của cả hai vợ chồng em. Hải có nghĩa là biển. Đặt tên con thế cũng là để kỷ niệm ngày chúng em gặp lại và yêu nhau ở trên vùng biển đảo Tây Nam - Người mẹ trẻ tên Von trìu mến ôm con, đôi má ửng đỏ kể cho chúng tôi nghe về chuyện tình của mình.

Tết Đinh Hợi này, bé Hải vừa tròn 8 tháng tuổi. Khi con cứng cáp, chị Von sẽ lại phải tiếp tục lên Thành phố Hồ Chí Minh công tác. Hai vợ chồng, mỗi năm gặp nhau chỉ một vài lần nhưng vẫn luôn động viên nhau bằng những cánh thư chan chứa yêu thương và an ủi nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ.

Những tổ ấm trên miền đảo Tây Nam chúng tôi có dịp tìm hiểu chưa thể kể hết trong bài viết này. Qua mỗi hòn đảo, ghé thăm các gia đình quân nhân, mỗi tổ ấm, mỗi câu chuyện của những cán bộ, chiến sĩ hải quân đều để lại những hình ảnh đẹp và để lại ấn tượng sâu sắc. Những người vợ của cán bộ hải quân dẫu ở quê nhà xa xôi hay ở bên cạnh chồng trên các đảo tiền tiêu, họ đều thấu hiểu nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả của Bộ đội Cụ Hồ, là điểm tựa tinh thần cho chiến sĩ canh biển trời Tổ quốc. Trên những hòn đảo tiền tiêu, nơi biển khơi chan hòa trong cảnh đẹp ngày Xuân, mãi là mảnh đất cho những tình yêu đôi lứa nở hoa, kết trái.

Biển đảo Tây Nam, Xuân Đinh Hợi

Bài và ảnh: ĐẶNG TRUNG KIÊN