Quyết định hành động vì chính nghĩa

Tình hình thế giới thập niên 1960 diễn biến rất phức tạp, với cuộc đối đầu sâu sắc và toàn diện giữa hai siêu cường Liên Xô - Mỹ, thể hiện ở chạy đua vũ trang và phát triển vũ khí hạt nhân; cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, cách mạng Algeria, phong trào tháng 5 ở Pháp và Tây Âu năm 1968, các cuộc đình công quy mô lớn tại Pháp, phong trào giải phóng dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ khắp châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin...

Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên phát biểu trong buổi gặp mặt tri ân hai công dân Thụy Sĩ, ngày 17-11. Ảnh: HÀ PHƯƠNG 

Nổi bật trong số đó là cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam đang bước vào giai đoạn khốc liệt, với việc Mỹ mở rộng leo thang chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam. Dư luận thế giới ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, song ít ai tin Việt Nam sẽ giành chiến thắng, bởi cuộc đối đầu không cân sức giữa một bên là siêu cường với một bên là nước nghèo bị nhiều năm chiến tranh tàn phá. Bởi vậy, thông tin các cuộc đàm phán về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam diễn ra tại Paris được dư luận thế giới hết sức mong chờ.

Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, hành trình treo cờ lên chóp Nhà thờ Đức Bà Paris đã được tái hiện theo lời kể của ông Olivier Parriaux và ông Bernard Bachelard...

Năm 1969, có 3 chàng thanh niên đến từ 3 ngôi làng ở bang Vaud, phía Tây Nam Thụy Sĩ, gồm Bernard Bachelard, 26 tuổi, giáo viên thể dục; Noé Graff, 24 tuổi, sinh viên khoa luật; và Olivier Parriaux, 25 tuổi, sinh viên Vật lý. Hưởng ứng phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam đang lan rộng nhiều nơi trên thế giới, 3 chàng trai trẻ thôi thúc ý định phải làm một việc gì đó để bày tỏ tình đoàn kết, ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chính nghĩa đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược.

Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, họ thống nhất đi tới quyết định sẽ treo lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (MTDTGPMN) Việt Nam lên chóp tháp Nhà thờ Đức Bà Paris vào đúng thời điểm phái đoàn 4 bên chuẩn bị gặp mặt tại Paris, như một cách bày tỏ tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam.

Sau này, ông Olivier Parriaux "bật mí", họ quyết định chọn việc treo cờ bởi sự kiện này dễ gây ấn tượng mạnh và thu hút truyền thông thế giới; qua đó thể hiện sự ủng hộ của thế giới đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Hơn nữa, hành động mang tính biểu tượng này không hàm chứa bạo lực, đúng với tinh thần của những người yêu chuộng hòa bình. Ngoài ra, hành động theo nhóm nhỏ có thể giúp họ giữ kín được danh tính, hạn chế thông tin bị tiết lộ.

Thời gian hành động dự kiến vào ngày diễn ra cuộc gặp sơ bộ (18-1-1969) để chuẩn bị cho cuộc đàm phán 4 bên chính thức đầu tiên (ngày 25-1-1969). Paris lúc đó là tâm điểm của truyền thông thế giới. Nếu mọi việc diễn ra đúng dự kiến, lá cờ sẽ tung bay trên đỉnh tháp ngay trước lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Mỹ Richard Nixon ngày 20-1-1969, là cách bày tỏ phản đối cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam, ngay trước dịp lễ trọng của Nhà Trắng.

Về địa điểm, sau khi cân nhắc các yếu tố, nhóm thống nhất không chọn Tháp Eiffel mà chọn Nhà thờ Đức Bà Paris, bởi đây không chỉ là một địa điểm hút khách du lịch hàng đầu Paris, mà còn là biểu tượng thiêng liêng của nước Pháp, một di sản văn hóa thế giới đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận, mang giá trị tinh thần, nhân văn và lịch sử sâu sắc.

Tính toán và thực hiện

Thống nhất xong về phương hướng, giờ là lúc phân công cụ thể cho từng người trong nhóm. Noé Graff đảm nhận nhiệm vụ lái xe và canh gác; Olivier Parriaux và Bernard Bachelard trèo lên đỉnh tháp treo cờ, soạn thảo thông cáo báo chí gửi nhật báo Le Monde của Pháp.

Vợ Bernard Bachelard khi đó vừa mới sinh con đã thức ròng rã mấy đêm để may một lá cờ MTDTGPMN Việt Nam bằng lụa, dài 5m, rộng 3,5m, gấp xếp nếp để khi cuộn lại cờ không bị rối. Họ còn tính toán may thêm một đường viền mép, lồng vào đó sợi dây nhựa, để có thể kéo cờ căng ra ngay cả khi không có gió. Các vật dụng mang theo có thêm sợi dây thừng dài chừng 20m và một chiếc cưa sắt. Dĩ nhiên không thể thiếu giấy, bút và bì thư đựng thông cáo báo chí, cùng ít đồng franc Pháp để tiêu dọc đường. “Không đèn pin, không điện thoại thông minh, dĩ nhiên rồi, vì thời đó chưa có điện thoại di động”, ông Olivier Parriaux hóm hỉnh chêm ngang câu chuyện kể. 

6 giờ thứ bảy ngày 18-1-1969, khi trời còn tối, từ thành phố Lausanne của Thụy Sĩ, 3 thanh niên chất đồ lên chiếc xe hơi cà tàng nhãn hiệu Citroën 2 CV, vượt quãng đường hơn 500km tới Paris lúc 13 giờ. Theo phân công, Noé Graff tìm chỗ đậu xe nơi góc phố gần đó, đúng nửa đêm sẽ nháy đèn pha bật tín hiệu cho đồng đội. Hai người còn lại cuốn lá cờ đã xếp nếp quanh người, giấu chiếc cưa sắt và cuộn dây thừng trong lớp áo khoác dày. Paris lúc ấy đã vào đông, thời tiết khá lạnh, dưới 4 độ C.

Rất nhanh chóng, Olivier Parriaux và Bernard Bachelard hòa vào dòng du khách cuối cùng trong ngày đi tham quan Nhà thờ Đức Bà Paris. Chớp thời cơ, hai người tụt lại sau cùng, rồi lẩn ngay vào một góc khuất, ém mình chờ khi trời tối. Màn đêm buông xuống, cả hai bắt đầu thao tác như kế hoạch. Đã nghiên cứu kỹ tập bản vẽ kiến trúc Nhà thờ Đức Bà Paris lưu trữ tại thư viện Palais de Rumine của thành phố Lausanne, nên họ không bị bỡ ngỡ với địa hình thực tế. Trước đó, nhóm cũng tập dượt thành công với việc treo cờ MTDTGPMN Việt Nam trên đỉnh các tháp nhà thờ lớn ở Lausanne, nhân một cuộc biểu tình ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước, tổ chức tại Thụy Sĩ.  

Nhờ sự tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng, bất chấp đêm đen giá lạnh, không thiết bị bảo hộ, chỉ có lòng quả cảm và óc phán đoán, hai người trẻ tuổi mò mẫm chinh phục từng nấc bậc thang để tiếp cận chóp ngọn tháp cao 96m. Cũng không hiếm những giây phút thót tim. Trong cuốn sách “Le Vietcong au sommet de Notre-Dame” (Lá cờ Việt Cộng trên đỉnh Nhà thờ Đức Bà), do Nhà xuất bản Favre, Lausanne (Thụy Sĩ) ấn hành tháng 1-2023, ông Olivier Parriaux hồi tưởng lại: “Kinh ngạc: Thay vì có một lối đi liền mạch từ tháp chuông sang tường máng xối, chúng tôi phát hiện một khoảng cách 2m phải vượt qua mà phía dưới là độ sâu 35m-điều mà tập bản vẽ chúng tôi từng nghiên cứu không hề chỉ ra. Trời đã tối. Lưng chạm vô tường của tháp chuông-không có độ lùi lấy trớn-Bernard Bachelard phóng qua không mấy khó khăn. Tôi nhảy qua, suýt chút nữa là hụt chân, may có Bernard Bachelard túm giữ lại”.

Khi được hỏi có tính đến yếu tố rủi ro trong lúc thực hiện cuộc treo cờ mạo hiểm đó không, ông Olivier Parriaux cười xòa bảo: “Có chứ, nếu suôn sẻ thì không sao, nhưng nếu rủi ro xảy ra, ví như một giây trượt tay trong lúc trèo lên đỉnh ngọn tháp, hẳn đó sẽ là kết cục xấu nhất: Mất mạng. Còn nếu bị phát hiện và bao vây, chúng tôi có thể phải chịu một án phạt tù. Chúng tôi đã lường trước những tình huống có thể xảy ra và sẵn sàng đối mặt, chỉ nghĩ nếu bị bắt, Bernard Bachelard sẽ là người vất vả nhất, sẽ mất việc, mà vợ anh ấy thì vừa mới sinh con”.

Liệu nhóm treo cờ có gặp nguy hiểm khi leo lên chóp tháp Nhà thờ Đức Bà Paris và trở về an toàn? Trong bài tiếp theo của loạt bài này, các nhân vật sẽ tiết lộ 30 giờ thực hiện “nhiệm vụ đặc biệt” để ủng hộ cuộc chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

(còn nữa)

PHƯƠNG THẢO - LINH OANH

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Phóng sự Điều tra xem các tin, bài liên quan.