Tôi quen thân gia đình họ Khương ở Hội An đã lâu lắm. Nhưng thân quý, cảm phục, hết lòng yêu thương gần như cả gia đình này, mà cầu nối bắt đầu sâu sắc dần là từ người con gái Khương Băng Kính của Già Khương. Khương Băng Kính là một trong chín người con của Già Khương. Chị đi văn công Quân đội từ năm mười lăm, mười sáu tuổi. Chị có cuộc đời, tình yêu sôi nổi, thủy chung. Chị sống chân thật và nhiệt tâm với bạn bè, người thân. Tôi nói về chị một chút như thế, vì theo tôi, chị là người chăm lo cụ thể nhất từng giá trị tinh thần của người cha Khương Hữu Dụng và của hai anh trai Khương Thế Xương, Khương Thế Hưng. Chị không phải là người có kỹ năng làm sưu tập, làm sách văn học. Nhưng cả mấy cuốn chị làm về Khương Thế Xương, Khương Thế Hưng và đặc biệt ba cuốn tổng kết cả đời và thơ Khương Hữu Dụng, chị là người có công đầu. Chị làm công việc này say mê, thận trọng và hết lòng yêu kính người thân. Nay cả ba người ruột thịt ấy không còn ai sống trên đời này. Họ sẽ sống mãi trong những trang sách và trong lòng bạn đọc Việt Nam

8 chị em con Già Khương và anh Lưu Quy Tân (1951). Ảnh tư liệu

Tôi muốn cảm ơn Già Khương, cảm ơn gia đình Già Khương, đặc biệt cảm ơn chị Khương Băng Kính. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn với anh Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin.

Anh Nghị là người bạn, người anh em cùng đi B năm 1971 với tôi. Tôi ở Khu V, anh Nghị về Nam Bộ. Hòa bình mỗi người một nơi công tác.

Sự nghiệp văn học của Khương Hữu Dụng rất lớn. Khẳng định một con đường đi riêng độc đáo và giàu có nhất, đẹp nhất là phẩm giá cao quý của cả cuộc đời nhà thơ gần 100 năm tuổi ấy, nên tôi đã cố gắng tìm mọi cách để in cho được một cuốn sách về sự nghiệp thơ của ông, đời ông.

Tôi không có tiền. Gia đình Già Khương cũng không thể tìm đâu ra hàng trăm triệu để in sách.

Lúc này anh Phạm Quang Nghị đang làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin. Tôi mạnh dạn viết thư và xin tiền in sách cho nhà thơ Khương Hữu Dụng. Thư tôi gửi không lâu thì nhận được sự đồng ý rất cao quý, trân trọng của Bộ trưởng.

Khi có thông báo tiền do Bộ trưởng Văn hóa-Thông tin đồng ý tài trợ, tôi không trực tiếp làm sách, mà đề nghị gửi đến Nhà xuất bản Văn học. Tôi mời chị Khương Băng Kính cùng đến gặp Giám đốc Nhà Xuất bản Văn học Nguyễn Văn Lưu. Cả ba chúng tôi làm việc tại phòng Giám đốc. Tôi đề nghị chị Khương Băng Kính từ nay sẽ trực tiếp làm việc với Giám đốc Nguyễn Văn Lưu và Nhà Xuất bản Văn học để in sách cho nhà thơ Khương Hữu Dụng.

KHƯƠNG HỮU DỤNG-TUYỂN TẬP đã ra đời, gồm Phần sáng tác Phần thơ dịch (Nhà Xuất bản Văn học). Và Nhà xuất bản Đà Nẵng đã in tập KHƯƠNG HỮU DỤNG-MỘT ĐỜI THƠ gồm những bài của bầu bạn và độc giả viết về Nhà thơ. Tất cả gồm 2.760 trang chữ và ảnh tư liệu quý.

Tôi mơ ước có sách về nhà thơ Khương Hữu Dụng, nay có rồi, đẹp, trang trọng. Xin có lời cảm ơn Nhà xuất bản Đà Nẵng, đặc biệt Nhà xuất bản Văn học.

Ngoài sự nghiệp văn học đáng trân trọng. Nhà thơ Khương Hữu Dụng còn dâng hiến cho Tổ quốc cả hai người con trai ưu tú, vô vàn yêu quý của mình.

Khương Thế Xương, sinh ngày 22-11-1931 tại Hội An, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con trai đầu của nhà thơ Khương Hữu Dụng. Khương Thế Xương hy sinh ngày 14-1-1953 trong trận đánh đồn Tú Thủy, khi vừa qua tuổi 21.

Năm 2000, Nhà xuất bản Thanh Niên đã in cuốn CHÂN DUNG MỘT NGƯỜI LÍNH về Khương Thế Xương. Tới đây, gia đình sắp cho ra một cuốn về người lính Khương Thế Hưng, một người lính trăm phần trăm, có tâm hồn nghệ sĩ, đa tài, có nhiều đóng góp về âm nhạc, múa gắn liền với dân tộc Chăm và những gì ít ỏi còn lại: những dòng nhật ký chiến trường, thơ, nhạc và những trang đồng đội, bầu bạn viết về anh có cái tên giản dị: MỘT CHIẾN SĨ QUÂN GIẢI PHÓNG.

Tôi có viết mấy lời đầu sách cho cuốn sách có tên CHÂN DUNG MỘT NGƯỜI LÍNH:

“Những người trí thức trẻ Việt Nam tham gia đánh Pháp trên các chiến trường Hà Nội, Lạng Sơn, Khu 5, Nam Bộ… sau 1945 có một thói quen rất quý là hay ghi nhật ký.

Qua nhật ký, ta cảm nhận rất rõ không khí của thời đại họ sống.

Đọc nhật ký của họ, ta thích thú, thòm thèm và tiếc.

Thích thú, vì nhật ký viết rất sinh động, chân thực và có chất men say lãng mạn không chỉ thôi thúc họ chiến đấu ngày ấy, mà còn ngấm say người đọc hôm nay.

Thòm thèm, vì những món ăn lạ, ngon, dân dã nhưng rất đắt ấy, thường quá ít, chưa đã thèm, đã hết.

Tiếc, vì chiến tranh quá ác liệt, gay go, người viết chỉ ghi lại để làm kỷ niệm, nhật ký khó giữ gìn được trong quá trình chiến đấu và cũng không ai, không có tổ chức nào có ý thức giữ gìn những vật báu của quốc gia ấy, nên chúng thường bị thất lạc, mất mát. Cái gì còn lại là rất ít.

Chúng tôi may mắn tập hợp được một phần nhỏ nhật ký của Khương Thế Xương-những trang nhật ký gần cuối đời của anh vào khoảng đầu năm 1952. Còn những cuốn nhật ký ghi đều đặn từ ngày “đốt trường” cùng Nguyên Ngọc, Phan Tứ tại Hội An năm 1946, đến hằng tháng ròng đi bộ ra khu IV học tập, thời học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn và những tháng ngày ròng rã hành quân trở lại quê nhà Liên khu V chiến đấu, thời kỳ trong và sau chiến dịch hè 1952 ở Quảng Nam cho đến ngày anh hy sinh… đều mất hết!

Chúng ta biết ơn nhà thơ Khương Hữu Dụng, với tất cả tình cảm và tấm lòng của người cha, đã dày công chép lại những lá thư Khương Thế Xương gửi về nhà, những trang nhật ký của người con trai đầu, mà ông đặt trọn niềm tin và gửi gắm nhiều hy vọng. Ông cũng đã chép lại (và trân trọng từng nét chữ ký) ở những dòng lưu niệm của đồng đội sau ngày Khương Thế Xương hy sinh… trước khi trao cho Bảo tàng Quân đội lưu giữ bản gốc (năm 1959).

Những người lính mất đi, nhưng hình ảnh họ vẫn còn sống mãi với gia đình, với người thân, với đồng đội, bạn bè, với quê hương và nhân dân những nơi họ từng sống, từng chiến đấu và từng là người con, người anh, người em và cả là người yêu của các cô gái-những tình yêu lính, trong trẻo, dịu ngọt, lạ thường…

Khương Thế Xương cũng là một người như thế. Đọc những trang xúc động của đồng đội khi Khương Thế Xương vừa ngã xuống cũng như hồi ức sau này về anh của những người quen thân đã ngót 50 năm, mà ta vẫn thấy tinh khôi, đầm ấm, thiết tha… Chân dung người lính Khương Thế Xương hiện lên như chưa bị dấu vết thời gian làm phai mờ. Những dòng sông Thu Bồn, Hoài Giang, Sông Vệ, Sông La như đang chảy hiền hòa trước mắt chúng ta”.

Trong bài Khương Thế Xương bạn tôi, Nhà văn Nguyên Ngọc viết:

Cuộc kháng chiến chống Pháp đến, bắt gặp chúng tôi ở tuổi cắp sách tới trường, Khâm đâu chừng ở tuổi 15 hay 16, tôi mới 14. Tiêu thổ kháng chiến. Chúng tôi chất bàn ghế đầy các lớp học, một đêm cuối tháng 12 năm 1946, tự tay mình đốt trường ra đi. Rút qua bên kia sông, đấy chính là sông Thu Bồn ở chỗ sắp đổ ra Cửa Đại. Từ đấy mỗi người một ngả, những người con của cái thị xã bé nhất nước và theo tôi, hiền lành, đẹp nhất và đáng yêu nhất nước. Hầu hết dân Hội An lớp tuổi chúng tôi, nếu tôi không nhầm, rồi đều trở thành bộ đội cả. Ấy là con đường đi tất yếu của cả một thế hệ. Hồi học ở trường, chúng tôi còn một bạn rất thân nữa: Khương Thế Xương, con trai đầu của nhà thơ Khương Hữu Dụng. Chúng tôi là một bộ ba, vào loại học khá nhất lớp. Đúng ra thì Khâm học cần cù, cẩn thận, mực thước. Tôi vào loại học trò ngoan, chăm chỉ ở mức vừa phải. Thông minh nhất, mà cũng tài hoa và tài tử nhất là Xương. Đâu vào năm 1947, không biết tìm được ở đâu ra, giữa thị xã Quảng Ngãi kháng chiến hoang tàn, Xương đưa cho đọc bản trường ca Hố chôn chung (La Fosse Commune) của một nhà thơ cộng sản kháng chiến Nam Tư, do chính Xương chép tay bằng cuốn sổ đóng bằng giấy tự túc Khu 5 vàng khè có chỗ còn nguyên cả một cọng rơm bị ép bẹp gí. Đấy là tác phẩm văn học cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên tôi được đọc trong đời mình. Biết đâu chính nó đã dẫn tôi sau này đi vào con đường cầm bút? Xương đi bộ đội và hy sinh sớm quá, mùa xuân năm 1953 (đêm 13 rạng ngày 14-1-1953) trong trận đánh đồn Tú Thủy phía tây tỉnh Bình Định, cách vùng Tây Sơn nơi Nguyễn Huệ khởi nghĩa và cũng cách làng Xi-tơr quê người anh hùng Núp của tôi sau này không xa. Trận ấy Xương là trung đội trưởng bộc phá.

Nhiều người chỉ huy thường bảo tôi: Nếu Khương Thế Xương không hy sinh sớm quá, nhất định anh sẽ trở thành một cán bộ quân sự ưu tú. Còn tôi cho đến nay tôi cứ đinh ninh rất có thể chúng ta đã mất đi ở Xương một nhà văn không phải thuộc tầm cỡ chúng tôi bây giờ. Giá Xương còn sống…

… Thế hệ Khương Thế Xương, thế hệ chúng tôi thời ấy là như vậy đó. Mười lăm tuổi, nghĩa là hoàn toàn còn thiếu niên (ngày nay thì gọi là “vừa mới hết tuổi quàng khăn đỏ”). Kháng chiến nổ ra, chúng tôi chưa tham gia kháng chiến ngay. Chúng tôi còn tiếp tục đi học. Nhưng ở Liên khu 5 hồi ấy có một thứ có thể gọi là một thứ “Không khí Thời đại” như vậy: một lớp thiếu niên mới lớn lên, vừa đi ra khỏi tuổi trẻ con, trong sáng, ngây thơ, khao khát ánh sáng mới, ánh sáng văn hóa và ánh sáng cách mạng, kháng chiến, háo hức muốn trưởng thành sớm, muốn vượt thời gian, bứt phá. Khương Thế Xương là một người rất tiêu biểu của lớp thiếu niên ấy”.

Còn tôi, xin được gọi Khương Thế Xương là một người anh hùng tiêu biểu của Quân đội nhân dân anh hùng: Một người lính có văn hóa, có lý tưởng, có tài năng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, được gia đình nuôi dưỡng tình yêu cao thượng từ ấu thơ, được bạn bè, nhân dân yêu quý, được đồng đội và chỉ huy tin tưởng… Anh không chỉ là chân dung một người lính thời quân đội ta còn non trẻ, thời kháng chiến chống Pháp, mà còn là chân dung một người lính hiện đại ngày hôm nay và mãi mãi về sau…

Khương Thế Hưng, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1934 tại thị xã Hội An, Quảng Nam, là con thứ 3 sau Khương Thế Xương và Khương Băng Tâm. Khương Thế Hưng mất ngày 13 tháng 11 năm 1999, sau nhiều năm dài vật lộn với thương tật và bệnh tật do di chứng chiến tranh, thọ 65 tuổi.

Sau đây là mấy dòng nhật ký chiến trường sẽ in trong cuốn MỘT CHIẾN SĨ QUÂN GIẢI PHÓNG.

Có lẽ 20 năm sau khi đất nước yên hàn, lòng mình vẫn nhói lên khi nghĩ về những con người hôm nay, trong cuộc chiến đấu khốc liệt này. Họ hy sinh bản thân mình, vô tư đến trong trắng vì căm thù trở thành niềm say mê, như một khát vọng muốn đánh gục kẻ thù, ngay trước mắt họ, hả hê.

Vô tư như vô ý thức mà chính ra ý thức họ rõ ràng đến trong suốt như pha lê, như không còn ý thức.

Nó trở thành cái ĐẸP ngàn năm và cũng là nỗi ĐAU ngàn năm ta nhớ để phấn đấu không còn bao giờ trở lại những mất mát quá lớn lao này.

1970

(Còn nữa)

HOÀNG MINH NHÂN