QĐND - Đại tá, CCB Cao Xuân Đại sinh năm 1948 ở xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đầu năm 1967, ông xung phong lên đường nhập ngũ vào Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 812, Sư đoàn 324 và tham gia nhiều trận ở chiến trường Bình Trị Thiên, Tây Nguyên. Sau khi đất nước thống nhất, ông tiếp tục tham gia các chiến dịch truy quét Phun-rô ở Lâm Đồng, làm nhiệm vụ quốc tế ở ở Cam-pu-chia…
Trong suốt cuộc đời quân ngũ của mình, ông đã tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, trong đó những trận làm nên lịch sử như cuộc tập kích vào ngày 10-9-1967. Trong trận đánh này, Tiểu đoàn 4 cùng các đơn vị của Trung đoàn 812 được hỏa lực mặt trận chi viện tấn công tiêu diệt Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 26 Thủy quân lục chiến Mỹ tại núi rừng Hồ Khê, Cam Lộ, Quảng Trị. Khi được lệnh xung phong, ông cùng đồng đội nhanh chóng vượt qua lưới lửa dày đặc của địch lao thẳng vào sở chỉ huy Tiểu đoàn 3 của Mỹ. Lúc đang cùng Nguyễn Trường Thanh phát triển chiến đấu thì gặp 2 tên lính thông tin Mỹ bị pháo ta uy hiếp đang nằm trong hố cá nhân, ông liền ép trói chúng lại. Tuy nhiên, hai tên địch vùng dậy cướp khẩu súng AK và đè lên người Nguyễn Trường Thanh (lúc này Thanh bị thương). Thấy thế Cao Xuân Đại nhanh trí bắn gãy chân hai tên lính Mỹ và đứng dậy ôm cổ từng tên vật ra khỏi người Nguyễn Trường Thanh, cứu sống đồng đội. Tiếp đó, ông dùng súng trung liên và lựu đạn tiêu diệt ụ đại liên của địch chi viện đắc lực cho đại đội phát triển chiến đấu bao vây diệt địch. Ở trận đấu này Cao Xuân Đại bị gãy tay và hàng chục vết thương. Tổng kết chiến dịch, đơn vị bầu ông hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt xuất sắc, được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 2. Toàn đơn vị phát động học tập gương chiến đấu kiên cường dũng cảm của Cao Xuân Đại.
 |
|
Đại tá Cao Xuân Đại (thứ 2, từ trái sang) tặng quà thân nhân liệt sĩ Lê Trọng Đạt ở Quảng Xương, Thanh Hóa.
|
Những năm tháng tham gia đánh đuổi Mỹ-ngụy, nhiều năm làm nghĩa vụ quốc tế, ông đã 6 lần bị thương nặng, trên người hiện còn 24 vết sẹo và 2 mảnh đạn đang “trú ngụ” trong đầu, tỷ lệ thương tật 56%. Những ngày trái gió, trở trời vết thương ở đỉnh đầu đau buốt làm ông không tài nào ngủ được.
Tâm sự với tôi, ông bảo: “Tôi may mắn còn sống sót trở về và có được cuộc sống như ngày hôm nay, nhưng biết bao đồng đội của tôi đã ngã xuống, bây giờ mộ chí không biết đang nằm ở đâu”. Lấy khăn mùi soa gạt nước mắt ông nói tiếp: “Trong trận chiến đấu Tết Mậu Thân năm 1968, Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 812 của tôi vào trận 128 người, nhưng kết thúc trận đánh chỉ còn sót lại 9 người. Ác liệt quá!”.
Vào năm 1994, ông bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm mộ liệt sĩ, nhưng giai đoạn này chưa có kết quả vì kinh tế còn khó khăn, đi được một thời gian ngắn rồi lại quay về. Ông nhớ lại, trưa ngày 5-7-1997, khi đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế, ông bàng hoàng nhận ra hàng nghìn ngôi mộ của cán, bộ chiến sĩ Sư đoàn 324 đã được quy tập về đây, liệt kê có 700 ngôi mộ thuộc Trung đoàn 812. Đứng lặng trước hương hồn các liệt sĩ-những người đồng đội năm xưa, ông tự nhủ, phải báo cho thân nhân liệt sĩ để họ tìm được nơi yên nghỉ của người thân. Sau dịp ấy, ông đã nhiều lần trở lại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Phong Điền để tìm và xác định được 203 liệt sĩ có thân nhân, quê quán rõ ràng; lập danh sách ghi chép cụ thể, chi tiết gửi về cơ quan quân sự các địa phương và từng gia đình các liệt sĩ.
Từ đó, ông đi đến nhiều nghĩa trang liệt sĩ, nhiều địa điểm chiến đấu ở Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Tây Nguyên… để ghi địa chỉ, chụp ảnh bia mộ rồi liên hệ với các gia đình thân nhân liệt sĩ. Suốt 18 năm qua, Đại tá Cao Xuân Đại tự thu xếp tiền tàu xe đi khắp các chiến trường xưa và tìm được hơn 1.300 phần mộ liệt sĩ, trong đó 252 trường hợp quê từ Quảng Nam trở ra. Tất cả các trường hợp xác định được danh tính, ông đều thông tin đến người thân của liệt sĩ. Đặc biệt, gia đình ông tổ chức đón tiếp, lo liệu ăn ở, trao quà tặng 70 gia đình thân nhân liệt sĩ chu đáo.
Đại tá Cao Xuân Đại tâm sự: “Làm công tác liệt sĩ là phải cảm thông chia sẻ, xem đau thương mất mát của đồng đội như đau thương của chính mình. Muốn làm được trước tiên phải thắng chính mình, dám hy sinh, chịu đựng gian khổ, tốn kém tiền bạc, sức lực, thời gian cũng như xông trận năm nào”.
Bài và ảnh: Chí Hòa