QĐND Online - Đã nhiều năm nay, gần 100 hộ dân đồng bào dân tộc Mông thôn Nà Bản, xã Xuân Lạc (huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn) vẫn phải sống trong cảnh thiếu nước sạch sinh hoạt. Công trình nước sạch được đầu tư hàng trăm triệu đồng bàn giao từ cuối năm 2009 đến nay vẫn chỉ là những đoạn ống khô khát, các trụ nước gia đình vẫn đứng chỏng trơ… bà con vì thế vẫn đang khát nước sạch.
Được tách ra từ huyện Ba Bể và sáp nhập về xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn) năm 2007, Nà Bản là thôn đặc biệt khó khăn với 98 hộ dân, trong đó 100% là đồng bào dân tộc Mông, số hộ nghèo chiếm trên 90%. Cả thôn chưa có điện, điểm trường Mầm non và Tiểu học là những gian nhà dựng tạm bằng tre, nứa; đường giao thông chỉ đi lại được vào mùa khô… Từ bao đời nay, đồng bào Mông nơi đây vẫn quen dùng nước suối trong sinh hoạt hàng ngày. Thói quen này đã khiến cho tình hình dịch bệnh trên địa bàn có những diến biến phức tạp. Do vậy, điều khao khát nhất của đồng bào nơi đây lại là nguồn nước sạch cho cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.
Đầu năm 2009, cuộc sống của bà con bước sang “trang mới” khi dự án 134 của Chính phủ đầu tư xây dựng công trình nước sạch. Những tưởng từ đây, cuộc sống của người dân sẽ được cải thiện, thoát khỏi cảnh thiếu nước sạch, nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang. Công trình nước sạch đã được bàn giao nhưng nước thì vẫn chẳng có giọt nào?!
 |
| Bà Trương Thị Dinh bên “công trình nước sạch” khô nước của gia đình. |
Đi cùng Chủ tịch xã Xuân Lạc- anh Nông Văn Mạc- vượt qua hai con suối nước ngập gần hết cả bánh xe máy, mất gần hai giờ đồng hồ cho hành trình 8 km chúng tôi mới đến được với Nà Bản. 98 hộ người Mông sống rải rác trên những ngọn đồi có độ cao vào loại nhất nhì của tỉnh. Chỉ nhìn qua địa hình ai cũng có thể thấy được nỗi khát nước sạch của người dân nơi đây như thế nào. Trưởng thôn Nà Bản Trương Văn Vàng dẫn chúng tôi đến các hộ gia đình trong thôn để “mục sở thị” cảnh thiếu nước sạch. Nhà bà Trương Thị Dinh toạ lạc trên một mỏm núi cao, bà cụ gần 80 tuổi dẫn chúng tôi ra khu vực vòi nước của gia đình được nhà nước xây theo dự án 134. Trên khuôn mặt nhăn nheo lộ rõ vẻ buồn phiền, rút đoạn gỗ được đóng chặt để ngăn cho trẻ con nhét đất bẩn vào ống, bà cho biết cái bệ này được nhà nước xây cho từ đầu năm 2009 cho đến nay chưa có lấy một giọt nước chảy qua…
Rời nhà bà Dinh, chúng tôi đến các hộ khác trong thôn, nhà ai cũng tận dụng những gì có thể từ chum vại, ống bương… để tích nước. Nhìn cảnh đó chúng tôi thấy nguy cơ phát sinh bệnh tật là điều dễ hiểu. Mà nước suối lấy đâu có dễ. Do phong tục sống của người Mông đa số làm nhà trên núi cao nên xuống suối cũng phải vài trăm mét, trời nắng đã vậy, trời mưa thì gánh nước lại càng khó khăn hơn. Anh Dương Văn Tu, một trong hai đảng viên của thôn tỏ rõ vẻ buồn phiền: “Đồng bào Mông nơi đây do trình độ nhận thức còn hạn chế, họ chịu cảnh khó khăn đã quen, nhưng khi được đầu tư công trình nước sạch những tưởng cuộc sống sẽ ít nhiều được thay đổi và điều chúng tôi mong muốn đó là niềm tin của bà con với các cấp chính quyền sẽ được củng cố thì cho đến nay kết quả chỉ đem lại nỗi thất vọng”.
 |
| Em Dương Thị Dậu ngày nào cũng phải đi gánh nước suối vất vả như thế này. |
Không thể đi hết các gia đình, chúng tôi chỉ đến được bốn hộ dân quanh đó, nhà ai cũng cảnh thiếu nước. Đến phân trường tiểu học và mầm non Nà Bản trên một mỏm núi cao, những gian nhà tạm bợ bằng tre, nứa. Trong nhà chúng tôi nhìn thấy 4, 5 chiếc thùng nhựa to loại từ 100 đến 200 lít, có lẽ do điều kiện kinh tế của các thầy cô nơi đây khá giả hơn nên mua được, chứ trên 90% hộ người Mông hạt thóc, củ khoai còn thiếu thì… Cô giáo Nông Thị Nhuận cho biết: “Cái khó khăn của giáo viên cắm bản thì ở đâu cũng vậy, nhưng ở đây chúng tôi thấy cảnh thiếu nước làm cuộc sống, sinh hoạt quá vất vả, nhất là đối với chị em phụ nữ, hàng ngày đi lấy nước suối xa gần 500 mét, chúng tôi thấy quý nước suối như những người lính ở Trường Sa quý nước ngọt vậy”. Nói rồi chị nhoẻn miệng cười, trong nụ cười của chị phảng phất nỗi buồn. Trên đường ra chúng tôi gặp em Dương Thị Dậu, một học sinh lớp 5, đôi vai gầy của em đung đưa gánh nước. Dậu cho biết, do bố mẹ phải lên nương nên ngày nào em cũng phải gánh hai gánh nước trên đoạn đường khá xa từ suối về nhà.
Theo Chủ tịch UBND xã Nông Văn Mạc, công trình nước sạch được thi công bởi doanh nghiệp Huy Hoàng (thị trấn Bằng Lũng) và bàn giao vào đầu 2009 nhưng không có nước. Sau đó đã được doanh nghiệp tư nhân Bình Minh sửa chữa nhưng vẫn không hiệu quả. Đến nay công trình vẫn đang trong “tiến trình” sửa chữa. Chúng tôi xin chuyển những mong muốn, khát khao của đồng bào người Mông ở thôn Nà Bản đến các cơ quan chức năng; đồng thời cũng mong tình trạng trên sớm được khắc phục để người dân giảm bớt cơn khát nước sạch, cũng như tránh để xảy ra tình trạng lãng phí tiền của.
Bài, ảnh: Đỗ Kim Tập