Nhóm phóng viên đi thực tế

Điểm sáng "Vì người nghèo"
Trí thức trẻ về quê xóa đói nghèo

… Mải hỏi chuyện người dân, chúng tôi chợt không thấy điều phối viên Hà Trí Cao đâu cả? Lát sau, có người thông báo, anh quay về trụ sở để nhận thư điện tử của khách hàng nước ngoài gửi về. Như để chúng tôi hiểu thêm, Tổng thư ký Hội Trần Đức Thanh cho biết, Hà Chí Cao quê ở Lai Vung, Đồng Tháp, vừa tốt nghiệp Khoa Sinh học, Trường đại học Khoa học tự nhiên TP Hồ Chí Minh cuối năm 2007. Trước khi tốt nghiệp một năm, Cao cùng thầy Trần Triết, giảng viên của trường, cũng là đại diện Hội Sếu đầu đỏ Quốc tế tại Việt Nam, về đây thực tập. Ấn tượng mạnh với vùng quê đầy sức sống này, tình yêu thiên nhiên lâu nay trong chàng sinh viên trẻ khoa sinh học dâng trào. Quê hương Lai Vung, Đồng Tháp của Trí Cao có những cánh đồng lúa xanh rộng mênh mông, nhưng không có những đồng cỏ bàng mọc tự nhiên như ở nơi này.

Cao tâm sự: “Khi vừa nhìn thấy đồng cỏ bàng mọc tự nhiên là em mê rồi. Mùa sếu về trú đông năm rồi (tháng 4-2007), em thực sự ấn tượng trước cảnh đàn sếu từ nhiều phương trời về đây vui đùa, sục sạo vào lòng đất tìm củ năn - món ăn khoái khẩu của chúng. Ở đây chỉ hơn một tháng, nhưng đó là khoảng thời gian hun đúc thêm trong em tình yêu thiên nhiên, động vật hoang dã. Là sinh viên được học theo chuyên ngành sinh học, em hiểu đây là món quà quý hiếm mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất này. Đây là vùng đất phèn nặng nhưng giàu chất hữu cơ, ngập theo mùa và thực vật thích nghi phần lớn là cây cỏ bàng. Em theo các nhà khoa học về đây nghiên cứu trước khi thành lập dự án. Ngoài cỏ bàng, trong các loài thực vật sinh sống ở đây, có năn xoắn (tên khoa học là Eleocharis spiralis) với hàm lượng tinh bột cao, là thức ăn hấp dẫn của loài sếu đầu đỏ, mọc tự nhiên từng mảng trên diện tích khoảng từ 200 đến 300 héc-ta, xen lẫn với loài cỏ bàng. Theo thống kê, những năm gần đây, sếu đầu đỏ về Phú Mỹ ngày càng tăng; từ vài cá thể trong năm 2004, năm 2006 tăng lên 66, năm 2007 là 102 và mùa trú đông cao điểm tháng 4-2008 vừa rồi, đã có 174 cá thể về đây trú ngụ. Em nghĩ, tuổi trẻ chúng em được học hành bài bản, chính quy. Còn trẻ, thời gian cống hiến cho đất nước còn dài, phải gắng sức, đem những gì đã được học tập, cùng các cô, các chú, gìn giữ và khai thác hiệu quả những sản vật quý báu này”…

Với giọng rất vui, Tổng thư ký Trần Đức Thanh bổ sung thêm: “Cuối năm 2007 vừa qua, Dự án Bảo tồn đồng cỏ bàng Phú Mỹ được Liên hợp quốc trao giải thưởng về “Thực hành tốt nhất về hoàn thiện môi trường sống” cùng phần thưởng 30.000USD. Và từ đề nghị của Hội Sếu quốc tế, quý I - 2008, UBND tỉnh Kiên Giang đã quyết định gia hạn hai năm nữa (2007-2009) với tổng mức đầu tư 150.000USD, trong đó vốn của Hội Sếu quốc tế tài trợ là 120.000USD, 30.000USD là vốn của dự án từ nguồn tiền thưởng do Liên hợp quốc tặng”.

Đầu năm 2008, khi dự án được lãnh đạo tỉnh Kiên Giang phê duyệt, gia hạn thêm hai năm, Hà Trí Cao quyết định ở lại cùng các thầy, các cô, các chú, tiếp tục công việc điều phối viên ở Ban Quản lý. Lúc chia tay, Cao bịn rịn, thì thào nói nhỏ vào tai tôi: “Em “phải lòng” vùng đất này rồi. Em không thể xa đàn sếu anh ạ!”.

Bảo tồn sinh quyển

Thấy chúng tôi tâm đắc, tỏ ra ấn tượng trước những thành công của dự án “Bảo tồn đồng cỏ bàng Phú Mỹ”, Phó chủ tịch Văn Hà Phong phấn khởi, thông tin thêm: “Ngoài nhiệm vụ là cơ quan đầu mối về vận động viện trợ, Hội còn tham mưu đắc lực cho lãnh đạo UBND tỉnh xây dựng nhiều đề án, vận động tài trợ từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) không hoàn lại. Tiêu biểu trong thời gian gần đây là Dự án “Kết hợp bảo tồn và phát triển tại các trọng điểm Khu dự trữ sinh quyển tỉnh Kiên Giang” do Chính phủ CHLB Đức phối hợp với Cơ quan phát triển Quốc tế Ô-xtrây-li-a (AusAID) tài trợ thông qua Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ). Tổng vốn của dự án trong giai đoạn 1 (2008-2011) là 1,797 triệu ơ-rô, trong đó 1,634 triệu ơ-rô là vốn của AusAID và tổng các giá trị đóng góp của tỉnh Kiên Giang là 163.400 ơ-rô”…

Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang có tổng diện tích hơn 1,1 triệu héc-ta, bao gồm: Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Vườn Quốc gia Phú Quốc và Khu Bảo vệ cảnh quan Hòn Chông, được Ủy Ban Chương trình con người và sinh quyển - UNESCO công nhận là khu bảo tồn sinh quyển thế giới vào tháng 10-2006. Theo Thạc sĩ Lương Thanh Hải, môi trường trong tương lai sẽ có nhiều biến động do tình trạng trái đất nóng dần lên. Ủy ban Quốc tế về biến đổi khí hậu đã xác định, Việt Nam là một trong những quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là hai vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long. Dĩ nhiên, Khu Dự trữ sinh quyển tỉnh Kiên Giang không nằm ngoài tác động này. Mục tiêu của Dự án là sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Kiên Giang, nâng cao hiệu quả quản lý các khu vực cần bảo vệ ở các khu vực nguyên sinh. Tuy nhiên, các nhu cầu thiết yếu cho đời sống con người hiện tại đang không ngừng gia tăng, đè nặng áp lực lên các khu vực nguyên sinh do thiếu đất canh tác và nuôi trồng thủy sản; sự thoái hóa đất, cháy rừng và sự giảm thiểu nguồn cá biển, cá nước ngọt… Đáng nói hơn cả là sự phát triển nhanh nhưng thiếu định hướng bền vững của ngành du lịch, đem lại những tác động tiêu cực đến hệ sinh thái của các vùng nguyên sinh này…

Vùng đất than bùn hồi sinh

Vườn Quốc gia U Minh Thượng, có diện tích hơn 21.000 héc-ta nằm ở xã Thạnh Yên, huyện U Minh Thượng, cách thành phố Rạch Giá khoảng 50km về phía Tây, nơi có Khu Di tích Lịch sử Chiến khu cách mạng U Minh Thượng. Tới thăm nơi đây, chúng tôi được anh Phạm Văn Dân, Phó giám đốc, giới thiệu về ý nghĩa, tầm quan trọng của khu vườn nguyên sinh cấp quốc gia này đối với hệ sinh thái rừng tràm ngập nước úng phèn, được xem là lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Vườn Quốc gia U Minh Thượng là nơi có diện tích rừng đáng kể trên đầm lầy than bùn; nơi có sự đa dạng sinh học, đa dạng thực vật bao gồm nhiều loài hiếm, đặc hữu. Rừng và đất ngập nước ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng có nhiều động vật quý hiếm đang bị đe dọa tuyệt chủng. Mối đe dọa chủ yếu đối với đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng là: cháy rừng, than bùn bị khô, săn bắt động vật và phát triển du lịch không bền vững.

Xác định chức năng, nhiệm vụ, Ban Giám đốc Vườn đã đề ra nhiều giải pháp, biện pháp để nâng cao năng lực quản lý nguồn nước, phòng, chống cháy rừng nhằm cải thiện, bảo tồn tính đa sinh học, duy trì hệ sinh thái của rừng tràm ngập nước; xây dựng các phương án phòng cháy, chữa cháy cùng các giải pháp thay thế việc quản lý nước bằng các trang thiết bị phù hợp cho hoạt động phòng, chống cháy rừng…

Bảo vệ rừng, làm giàu đẹp quê hương

Tự tay điều khiển chiếc xuồng gắn máy đưa chúng tôi tham quan khu vực hơn 3.200 héc-ta rừng bị cháy năm 2002, giờ đây đã xanh ngát một vùng, anh Dân bùi ngùi: “Ngày ấy, nếu không có sự ứng cứu kịp thời, hiệu quả của các lực lượng, đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, của chỉ huy các đơn vị và lòng dũng cảm, tận tâm, tận lực của bộ đội đứng chân trên địa bàn… thì số phận khu rừng nguyên sinh này không biết sẽ ra sao? Giờ đây, như các anh, các chị thấy đấy, cả vùng rừng bị cháy đã hồi sinh. Nó sẽ rất hữu ích cho cuộc sống của hàng chục triệu người dân khu vực rộng lớn này. Công lao to lớn ấy trước hết thuộc về những người lính, họ xứng danh với truyền thống Bộ đội Cụ Hồ…”.

Nghe anh Dân nói, tôi chợt nhớ tới những lời tâm sự trên xe ô tô của anh Hai Hồng và anh Đức Thanh - những lãnh đạo chủ chốt, mẫn cán của Hội Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Kiên Giang. Năm xưa, họ là những người lính Cụ Hồ. Giờ đây, trên trận tuyến chống đói nghèo và lạc hậu, trước những cảnh đời của nhân dân còn nghèo khó, họ lại huy động, quy tụ đội ngũ, thực hiện những phần việc Đảng, Nhà nước giao với ước mong sớm cho đời sống người dân Kiên Giang ngày càng đi lên, khá giả, ngang tầm với những cái đẹp mà thiên nhiên đã ban tặng. Chỉ mới mấy năm, những thành công bước đầu mà các anh đem lại cho người dân, cho cộng đồng quả là không nhỏ, thật đáng trân trọng…

Chia tay Rạch Giá, anh Hai Hồng nhắc đi, nhắc lại lời mời chúng tôi sớm trở lại Kiên Giang, để cùng các anh đón Tết Dolta với đồng bào Khơ-me ở Phú Mỹ, Kiên Lương; để chứng kiến từng bước thay da đổi thịt của vùng đất này và thưởng ngoạn giá trị của “công trình” mà các anh đã góp phần gây dựng, kêu gọi đàn sếu quý hiếm bay về trú đông mỗi năm. “Đất lành chim đậu mà. Có phải không các anh!...”. Lời mời mới tha thiết làm sao! Lời bài dân ca đêm đó các anh, các chị hát tặng chúng tôi cũng thật mùi mẫn, da diết: “Chiều xuống đứng bên cầu nghe sóng biển/Nắng thu vàng chiếu rạng bến bờ/Kiên Giang mình đẹp làm sao/Bóng mây sánh đôi bóng núi/Con chim nhạn hát điệu tình quê…”.

Rạch Giá, TP Hồ Chí Minh tháng 11-2008

Bài và ảnh: VÕ VĂN DŨNG