Những công nhân dân tộc Khơ-me của Dự án Phú Mỹ.

Chúng tôi về tỉnh Kiên Giang - điểm sáng về công tác xúc tiến vận động các nguồn lực, trong đó có viện trợ phi chính phủ nước ngoài (PCPNN) phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân đúng vào dịp cả nước dấy lên nhiều hoạt động nghĩa tình, thiết thực “Vì người nghèo”.

Vùng đất đẹp, dân chưa giàu

Trong câu chuyện tâm tình với chúng tôi, anh Lê Văn Hồng (Hai Hồng), Chủ tịch Hội Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Kiên Giang, trăn trở:

- Là một tỉnh được thiên nhiên ưu đãi nhiều lợi thế, nhưng đến nay người dân Kiên Giang vẫn chưa giàu. So với các địa phương khác, Kiên Giang còn hạn chế nhiều mặt trong phát triển kinh tế-xã hội. Tỉnh có gần 25% dân cư sống ở thành thị, số còn lại ở nông thôn sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy, hải sản, dịch vụ và du lịch. Do ở điểm cực Tây Nam Tổ quốc, điều kiện tự nhiên sông ngòi chằng chịt, giao thông đường bộ còn yếu kém. Tiềm năng các ngành kinh tế du lịch, dịch vụ, kinh tế rừng, kinh tế biển được xem là lợi thế nhưng chưa được khai thác hết. Nguồn lực lao động chính của tỉnh nằm ở nông thôn, nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo mới được khoảng 12,4%, nên việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các lĩnh vực phát triển sản xuất, nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản còn thấp. Tuy có một số tiến bộ trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa…, nhưng so với các địa phương khác trong khu vực, đến nay, đời sống của nhân dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng ven biển còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về nhà ở, việc làm, nước sinh hoạt, đi lại, thiên tai, ô nhiễm môi trường… Tỉnh hiện có hơn 10.000 nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin đều thuộc diện nghèo, ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa…

Trao đổi với Phó chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Văn Hà Phong, chúng tôi được biết, tỉnh xác định huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc đang đặt ra trong đời sống nhân dân. Những năm qua, bên cạnh việc tăng cường đầu tư ngân sách, bằng nhiều chủ trương, giải pháp thích hợp, Đảng bộ, chính quyền các cấp Kiên Giang đẩy mạnh vận động, phát huy các nguồn vốn nội lực trong nhân dân, đặc biệt là kêu gọi sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, tổ chức PCPNN, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nhân đạo, từ thiện trong và ngoài nước.

5 năm vận động được hơn 10,8 triệu USD

Theo anh Trần Đức Thanh, Tổng thư ký Hội Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Kiên Giang, tỉnh đã mở rộng và phát triển quan hệ với hơn 30 tổ chức PCPNN. Giá trị viện trợ được giải ngân liên tục tăng trong những năm gần đây. Năm 2006 đạt 1,6 triệu USD, năm 2007 đạt hơn 3 triệu USD và ước đạt trong năm 2008 là hơn 4 triệu USD. Trong 5 năm qua, Kiên Giang đã vận động viện trợ giải ngân được hơn 10,8 triệu USD, bình quân một người dân Kiên Giang được hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ nguồn viện trợ này là 6,52 USD. Các dự án viện trợ đã góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng hưởng lợi dự án, trong đó phân bổ 24,9% cho nguồn quỹ xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững; 23,2% xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, gia đình nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin; 23,1% mua sắm các trang, thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; hơn 20% xây dựng, sửa chữa trường học, trao học bổng, tặng quà cho học sinh nghèo hiếu học và 8% dùng cho xây dựng cầu, lộ giao thông nông thôn.

Đánh giá về hiệu quả của công tác xúc tiến nguồn viện trợ PCPNN của tỉnh nhà, Phó chủ tịch UBND tỉnh Văn Hà Phong cho rằng: Trong 5 năm qua, nhất là 2 năm gần đây, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Kiên Giang đã có những bước phát triển mạnh mẽ, hoạt động có hiệu quả và có nhiều đóng góp tích cực trong công tác đối ngoại nhân dân. Hơn 50% tổng giá trị giải ngân là hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, còn lại là phục vụ chung của lợi ích cộng đồng, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội. Nguồn viện trợ của các tổ chức đã góp phần thiết thực vào việc giải quyết một số vấn đề kinh tế-xã hội, khắc phục hậu quả chiến tranh, xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững ở một số vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị lũ lụt. Ngoài việc được hỗ trợ về vật chất, thông qua các dự án, cán bộ địa phương và người dân trong vùng hưởng lợi từ dự án còn được tập huấn, đào tạo để nâng cao năng lực, khả năng quản lý và ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật; được giới thiệu các mô hình phù hợp với sự phát triển của địa phương mình…

Bảo tồn môi trường,nâng cao mức sống người dân

Một trong các dự án được gây dựng và phát triển hiệu quả trong thời gian qua mà anh Hai Hồng rất tâm đắc, giới thiệu với chúng tôi là Dự án bảo tồn đồng cỏ bàng và phát triển làng nghề ở xã Phú Mỹ, huyện Kiên Lương. Là người tâm huyết, dày công với dự án này, hôm đưa chúng tôi đến thăm làng nghề Phú Mỹ, cách thành phố Rạch Giá hơn 70km về phía Tây Nam, anh trở thành “hướng dẫn viên” cho cả đoàn.

Đứng trước ngút ngàn thảm cỏ xanh, anh nói:

- Đây là cánh đồng cỏ bàng tự nhiên rộng lớn duy nhất còn sót lại ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó là những bãi cỏ năn xanh mượt và rừng tràm bạt ngàn. Đấy chính là môi trường sống lý tưởng cho sếu đầu đỏ, một loài động vật quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ thế giới…

Từ công tác xúc tiến hiệu quả của Hội, được sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới 110.000USD và nguồn vốn đối ứng của tỉnh Kiên Giang (300 triệu đồng), cuối năm 2004, Hội Sếu quốc tế đã quyết định đầu tư thêm 102.000USD, thành lập “Dự án bảo tồn đồng cỏ bàng Phú Mỹ”. Dự án này nhằm vừa bảo tồn môi trường tự nhiên trong khu vực, vừa khai thác bền vững, phát triển được nguồn nguyên liệu mới cho ngành mây tre lá Việt Nam, giải quyết việc làm với nghề thủ công truyền thống cho dân cư địa phương mà phần lớn là đồng bào dân tộc Khơ-me…

Trong căn nhà còn đơn sơ của Ban Quản lý dự án, chúng tôi được anh Hà Trí Cao, điều phối viên của dự án cho biết, đây là dự án mở (tức là cho người dân được vào khai thác cỏ bàng theo hướng bền vững). Diện tích đất của dự án rộng khoảng 2.800 héc-ta, trong đó đất có cỏ bàng mọc tự nhiên là 1.025 héc-ta. Trước khi có dự án, người dân ở đây khai thác nguyên liệu cỏ bàng, sơ chế thành các sản phẩm thô như đệm ngủ, đệm phơi nông sản…, tiêu thụ tại địa phương hoặc bán cho thương lái, xuất sang thị trường Cam-pu-chia. Khai thác, sơ chế đơn giản, nên thu nhập của họ chỉ đạt khoảng 7.000 đồng/người/ngày. Sau khi có dự án, nguyên liệu cỏ bàng sau sơ chế, được sản xuất qua các công đoạn dệt, may, hoàn thiện sản phẩm… Đến nay Dự án đã tạo ra được hơn 50 chủng loại sản phẩm. Ngoài các sản phẩm truyền thống tiêu thụ trong nội địa, cỏ bàng còn là nguyên liệu của các sản phẩm may, được cải tiến đa dạng về màu sắc, mẫu mã như giỏ (đệm), nón (mũ), các loại thùng, chiếu… đạt chất lượng cao, có thị trường xuất khẩu ổn định ở các nước Ca-na-đa, Đức, Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, I-ta-li-a… Sản phẩm từ cỏ bàng có chất lượng được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận, đánh giá cao, thu nhập của người dân trong vùng dần được cải thiện. Hiện nay, thu nhập một ngày của một công nhân dệt chiếu lót thô đạt từ 30 đến 40 nghìn đồng; một công nhân may có thu nhập từ 30.000 đến 100.000 đồng/ngày. Theo anh Lương Thanh Hải, giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang, ngoài việc bảo tồn môi trường tự nhiên, bảo tồn sự sinh sôi củ năn - thức ăn cho loài sếu đầu đỏ quý hiếm, cái được lớn nhất về mặt xã hội của dự án là không những duy trì sự phát triển tự nhiên mà còn phát triển trồng mới cỏ bàng. Từ nguồn nguyên liệu này đã khôi phục, đào tạo phát triển nghề thủ công truyền thống địa phương, giải quyết cho số lao động nhàn rỗi của khoảng 300 hộ dân trong khu vực làm việc tại nhà...

Ở ấp Tà Phọt, chúng tôi ghé thăm nhà bà Thị Mol. Giọng phấn khởi, bà nói: “Từ khi có dự án, mức thu nhập từ các sản phẩm cỏ bàng được nâng lên, đời sống của người dân chúng tôi đỡ vất vả hơn trước. Hằng ngày, nếu chăm chỉ gia công làm hàng cho dự án, mỗi người dân có thể nhận được tiền công từ 15 đến 36 nghìn đồng, gấp 4, 5 lần trước đây…”. Đúng là đã có của ăn, của để. Trong nhà bà, chúng tôi thấy đã có ti-vi, xe máy, tủ kính trưng, đựng quần áo…

Phó chủ tịch UBND xã Phú Mỹ, ông Danh Phol vừa đi công tác trên huyện về, mời chúng tôi uống nước. Ông chân tình thổ lộ: “Ngày trước, người dân địa phương chúng tôi chỉ khai thác cỏ bàng đơn giản, các sản phẩm dễ làm, vì vậy thu nhập còn thấp. Giờ thì có cán bộ dự án hướng dẫn cách khai thác hiệu quả, phát triển bền vững, giúp đào tạo, phát triển nghề truyền thống, trồng mới thêm nhiều diện tích cỏ bàng, bảo tồn môi trường tự nhiên, đời sống của người dân đang từng ngày được cải thiện. Hẳn là đồng bào Khơ-me các phum, sóc đón Tết cổ truyền Dolta năm nay sẽ lớn hơn năm trước!”. Vừa nói dứt lời, đúng phong cách Nam Bộ, ông đứng dậy, thủng thẳng ngâm mấy câu thơ: “Trắng da vì bởi mẹ cưng/Đen da vì bởi lội bưng nhổ bàng/Đêm đêm trong ánh trăng mờ/Gần xa rộn tiếng nhặt thưa giã bàng…”.

(Còn nữa…)

(Bài 2: Cải thiện môi trường sống)

Rạch Giá, TP Hồ Chí Minh tháng 11-2008

Bài và ảnh: VÕ VĂN DŨNG