Để tạo nên những kỳ tích trong y học, cán bộ, nhân viên Học viện Quân y đồng tâm, hiệp lực nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện những đề tài mới, phương pháp điều trị mới. Việc làm của họ không ngoài mục đích mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn và niềm vui khi có sức khoẻ cho mọi người. Khi trò chuyện cùng tôi, cán bộ, nhân viên Học viện đều cười hiền bộc bạch: họ không bao giờ thoả mãn với những điều kỳ diệu đã có được mà những đỉnh cao ấy chính là động lực để họ có niềm tin cống hiến nhiều hơn nữa trong nghiên cứu khoa học.

Tạo mầm sống trong… ống nghiệm

Khi chúng tôi đang trò chuyện thì Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình nhận được một cuộc điện thoại. Sau hơn 10 phút nối máy nói chuyện với gương mặt rạng rỡ và nụ cười thật tươi, Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình hồ hởi “bật mí” với tôi:

- Gia đình cháu Lưu Thị Mai gọi điện cho biết, cháu Mai bụ bẫm, ăn ngoan và đã biết nói bi bô, đồng thời gửi lời cảm ơn và chúc cán bộ, nhân viên Học viện luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Như biết tôi đang tò mò và chuẩn bị đặt câu hỏi, Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình giải thích:

- Cháu Lưu Thị Mai sinh ngày 14-12-2007, con ông Lưu Văn Cường và bà Hoàng Thị Luyến (thị trấn Vôi, Bắc Giang), là em bé đầu tiên ở Việt Nam ra đời bằng phương pháp nuôi cấy tinh tử, thụ tinh trong ống nghiệm do các thầy thuốc Trung tâm đào tạo, nghiên cứu công nghệ phôi thực hiện.

Trước đây, giúp các cặp vợ chồng vô sinh có con gần như là điều không tưởng. Song những năm gần đây, với phương pháp y học hiện đại nuôi cấy tinh tử, thụ tinh trong ống nghiệm, Học viện Quân y đã giúp trên 10 cặp vợ chồng vô sinh (do chồng không có tinh trùng) có được niềm hạnh phúc làm cha mẹ. Thành công này là bước tiến vượt bậc trong điều trị vô sinh nam ở Việt Nam. Từ khi thành công trong việc tạo nên mầm sống trong… ống nghiệm, chỉ trong một thời gian ngắn, tính đến tháng 12-2008, Học viện đã thực hiện thành công gần 1.000 ca thụ tinh nhân tạo, trong đó có trên 300 ca thụ tinh trong ống nghiệm.

Tâm sự về điều kỳ diệu đã mang lại hạnh phúc vô bờ cho nhiều cặp vợ chồng, Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình bộc bạch:

- Khi thực hiện thành công mỗi ca thụ tinh và sau đó được nghe tiếng khóc chào đời của các em bé, nghe giọng nói trong trẻo, hồn nhiên của các em là chúng tôi cảm thấy vui hơn, yêu đời và yêu công việc của mình hơn.

Tế bào sâm Ngọc Linh

Với bất cứ cán bộ nào ở Học viện Quân y, dường như trò chuyện về nghiên cứu khoa học luôn mang lại cho họ niềm say mê không có giới hạn. Sau khi trò chuyện về các đề tài ghép gan, điều trị ung thư, thụ tinh trong ống nghiệm, đi dạo trong khuôn viên rộng rãi, sạch sẽ và thoáng mát với thật nhiều cây xanh tạo cảm giác khỏe khoắn, dễ chịu, khi chuyển sang đề tài phát triển nguồn gen quý từ động, thực vật, TS, Thượng tá Nguyễn Tùng Linh hào hứng kể với tôi về ứng dụng công nghệ biomass để tạo sinh khối tế bào rễ sâm Ngọc Linh.

Học viên cử tuyển thực hành khám bệnh cho người bệnh

Sâm Ngọc Linh có tên khoa học là Panax Vietnamensis, thuộc họ nhân sâm, được xếp loại cùng 5 loại nhân sâm tốt nhất thế giới và đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy sâm Ngọc Linh có tác dụng bổ dưỡng toàn thân, tăng sức dẻo dai, cải thiện thể lực, giúp ăn ngon miệng, ngủ tốt, phục hồi sức khỏe nhanh… Ngoài ra, sâm còn có tác dụng bổ thần kinh, tăng cường trí nhớ, chống stress, chống gốc tự do, bảo vệ tế bào gan, phòng chống ung thư và làm tăng quá trình tái tạo mô hạt, giúp nhanh liền vết thương...

Sâm Ngọc Linh rất khó trồng, chỉ mọc ở độ cao trên 1500 mét, tập trung ở vùng núi Ngọc Linh, huyện Đăk To, tỉnh Kon Tum và xã Trà Lĩnh, thuộc huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh đó, sâm chỉ cho thu hoạch sau khoảng từ 4 - 6 năm, chất lượng sâm lại phụ thuộc nhiều vào chế độ kỹ thuật chăm bón, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng,... Hiện nay, sâm Ngọc Linh không đủ để đáp ứng nhu cầu cho ngành công nghiệp dược và mỹ phẩm.

Để phát triển nguồn gen quý này, từ một số tế bào gốc, bằng công nghệ sinh khối tế bào thực vật, phối hợp cùng Trường đại học Tổng hợp Ajou (Hàn Quốc), nhóm nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Sinh- Y- Dược học (Học viện Quân y) đã nuôi cấy thành công tế bào sâm Ngọc Linh, đáp ứng nhu cầu làm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng. Anh Linh hồ hởi cho biết:

- Với công nghệ nuôi cấy tế bào này, chỉ cần khoảng 20 ngày, có thể thu hoạch được một khối lượng lớn tế bào sâm Ngọc Linh thay vì phải mất khoảng 6 năm để trồng và chăm sóc sâm Ngọc Linh tự nhiên.

Với đề tài “Phương pháp sản xuất sinh khối tế bào rễ sâm Ngọc Linh”, Học viện Quân y đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp bằng độc quyền sáng chế. Thành công này chính là động lực tinh thần với những người thực hiện đề tài và anh Linh khẳng định:

- Trong thời gian tới, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Sinh- Y- Dược học sẽ tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ sinh khối tế bào thực vật với một số cây thuốc quý hiếm khác của Việt Nam để phát triển các nguồn dược liệu quý.

Tôi hỏi Thượng tá Nguyễn Tùng Linh:

- Các đề tài nghiên cứu khoa học của Học viện chắc chắn cũng có những ứng dụng cụ thể và đạt hiệu quả trong việc giúp đỡ người dân vùng sâu, vùng xa?

- Đó là điều đương nhiên. Ngoài việc tổ chức các đoàn thầy thuốc đi khám, chữa bệnh miễn phí cho người dân vùng sâu, vùng xa, chúng tôi còn thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học để giúp đồng bào - Anh Linh trả lời đầy tự tin.

Rồi anh say sưa kể cho tôi nghe câu chuyện về đề tài nghiên cứu nấm độc mà người dân vùng sâu, vùng xa hay bị ngộ độc.

Trong thiên nhiên, có rất nhiều loài nấm, trong đó có loài ăn được và có loài không ăn được. Ở nước ta, các vụ ngộ độc do ăn phải nấm độc thường xuyên xảy ra ở các tỉnh có nhiều rừng như Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Sơn La… Đặc biệt, những năm gần đây, tại các huyện Hoàng Su Phì, Quản Bạ, Quang Bình, Vị Xuyên, Mèo Vạc, Bắc Quang, Xín Mần và thị xã Hà Giang (tỉnh Hà Giang) liên tục xảy ra các vụ ngộ độc do ăn phải nấm độc.

- Do chưa có đề tài nghiên cứu về nấm độc, đồng thời công tác tuyên truyền, phổ biến cho người dân biết cách dự phòng ngộ độc nấm còn gặp nhiều khó khăn nên các vụ ngộ độc xảy ra nhiều.- Anh Linh nói.

Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, Học viện Quân y tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm sinh học, độc tính các loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Hà Giang và đề xuất một số biện pháp tuyên truyền giáo dục, dự phòng, cấp cứu và điều trị ngộ độc nấm độc”. Kết quả điều tra, khảo sát của Học viện cho thấy, có 9 loài nấm độc được phát hiện, trong đó có hai loài gây ngộ độc là nấm độc tán trắng (gây tổn thương gan) và nấm ô tán trắng phiến xanh (gây rối loạn tiêu hóa nặng). Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, Học viện Quân y tiến hành nhiều biện pháp tuyên truyền tới người dân và đến nay, số người ngộ độc do ăn phải nấm độc giảm đi rất nhiều.

Nghe chuyện, Thượng tá Nguyễn Huy Viện bổ sung thêm:

- Khi đi công tác vùng sâu, vùng xa để khám, chữa bệnh miễn phí cho người dân, chúng tôi luôn cố gắng hết sức, không ngại vất vả, khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi thực sự cảm động khi có người đi bộ từ thôn, bản hơn 10km đến khám và sau khi được cấp thuốc cứ quyến luyến bởi sự nhiệt tình, gần gũi của bộ đội.

Tâm và tầm người thầy thuốc

- Là thầy thuốc quân y, chúng tôi có mặt ở mọi miền đất nước và xác định rõ “lương y như từ mẫu”, hết lòng vì người bệnh - Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình nhấn mạnh với tôi như thế khi được hỏi về “cái tâm của người thầy thuốc”.

Với nhiều ứng dụng thành công các kỹ thuật tiên tiến vào điều trị, hiện nay, trung bình hằng năm, Bệnh viện 103; Viện Bỏng quốc gia và Trung tâm đào tạo, nghiên cứu công nghệ phôi khám cho hơn 240.000 lượt người, điều trị cho gần 30.000 lượt người bệnh. Bệnh nhân trong và ngoài quân đội khi đến khám, chữa bệnh và điều trị đều khẳng định: đây là địa chỉ tin cậy của người bệnh.

Mỗi khi tiếp nhận những ca khó, không quản thời gian, không ngại vất vả, các thầy thuốc đều dốc lòng dốc sức thảo luận, chẩn đoán để tìm ra phương pháp điều trị, phẫu thuật tốt nhất cho bệnh nhân.

- Sau những ca chữa bệnh thành công, niềm vui khi mang lại sức khỏe cho người bệnh giúp chúng tôi quên đi mọi sự căng thẳng, mệt nhọc. Những lời cảm ơn và nụ cười gần gũi của người bệnh khi bình phục chính là động lực để chúng tôi tự tin và tập trung hơn nữa cho công việc.

Nhìn cháu Nguyễn Thị Diệp mạnh khỏe, vui đùa cùng các cô, các chú trong Học viện, Thượng tá Nguyễn Huy Viện tâm sự:

- Năm 2004, trong những ngày cháu Diệp điều trị sau phẫu thuật, dù ca phẫu thuật thành công, các y, bác sĩ vẫn luôn trọng trạng thái sẵn sàng ứng phó với bất cứ dấu hiệu khác thường nào. Chỉ đến khi cháu hoàn toàn bình phục và ra viện, niềm vui của chúng tôi mới thực sự trọn vẹn.

Bí quyết để Học viện Quân y trở thành địa chỉ tin cậy của người bệnh, theo Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình, thì ngoài cái tâm người thầy thuốc còn phải có tầm:

- Mục tiêu của chúng tôi khi phẫu thuật là can thiệp ở mức tối thiểu và nâng cao chất lượng điều trị. Hiện nay, 70-80% các ca phẫu thuật tiêu hóa, tiết niệu là phẫu thuật nội soi. Để đáp ứng được mục tiêu đề ra, mọi cán bộ, nhân viên đều phải có ý thức học tập để nâng cao năng lực chuyên môn.

Trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ Học viện Quân y, bằng tâm huyết, trí tuệ và cả xương máu đã lập nên những thành tựu nổi bật, viết nên những trang sử vẻ vang vào truyền thống Học viện. Đây là di sản vô giá để thế hệ cán bộ, nhân viên Học viện hiện nay tiếp tục phấn đấu xây dựng Học viện trở thành một trung tâm đào tạo, nghiên cứu, điều trị hiện đại của quân đội và cả nước, tiếp tục đóng góp cho nhiệm vụ đào tạo nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học cho quân đội và đất nước, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe bộ đội và nhân dân.
Đi tìm điều kỳ diệu (phần 1)

Nguyễn Đức Hiếu