Cháu Nguyễn Thị Diệp chụp ảnh lưu niệm trong khuôn viên Học viện Quân y giữa tháng 2 vừa qua

Cuộc sống muôn hình muôn vẻ không bao giờ thiếu những điều kỳ diệu và chính đó là chất liệu góp phần tạo nên nét đẹp của cuộc sống. Đôi khi, tôi tự hỏi “làm thế nào để tạo nên điều kỳ diệu?”. Rồi tôi đi tìm câu trả lời và hiểu được giá trị đích thực của điều kỳ diệu sau khi tình cờ gặp gỡ, trò chuyện cùng cán bộ, nhân viên Học viện Quân y. Qua những khám phá thể hiện niềm say mê khoa học và tính nhân văn trong câu chuyện của họ, các cán bộ, nhân viên Học viện giúp tôi hiểu rằng, điều kỳ diệu mà họ đi tìm tồn tại ngay trong cuộc sống.

Kỳ tích ghép gan

Trong một buổi sáng xuân rực rỡ nắng vàng, tôi nhận được cuộc gọi của Thượng tá Nguyễn Huy Viện, Trưởng ban Tuyên huấn Học viện Quân y. Ở đầu dây bên kia, anh Viện hồ hởi:

- Đến Học viện Quân y chung vui với chúng tôi ngay nhé. Cháu Nguyễn Thị Diệp và người thân đang ở Học viện kiểm tra sức khỏe và thăm chúng tôi, gần gũi và cảm động lắm.

Nghe anh Viện nói, tôi lục lại trí nhớ trong giây lát xem cháu Nguyễn Thị Diệp này là ai. À, đúng rồi, đấy chính là cô bé đã được các thầy thuốc Học viện Quân y cứu sống trong ca ghép gan đầu tiên tại Việt Nam.

Khi tôi đến nơi thì thấy cháu Diệp đang cười rạng rỡ khi đứng chụp ảnh lưu niệm cùng cán bộ, nhân viên Học viện Quân y. “Chú chụp với cháu một kiểu nhé”, “Cô ơi, cháu với cô cùng cười tươi nhé”, hồn nhiên và nhanh nhẹn, Diệp cứ tíu tít bên cạnh các cô chú với tình cảm như người thân trong gia đình. So với bức ảnh Diệp chụp sau khi phẫu thuật cách đây 5 năm mà anh Viện đưa tôi xem, Diệp bây giờ lớn, xinh xắn và mạnh khỏe hơn rất nhiều.

Cũng có mặt tại buổi gặp gỡ thân tình này, PGS, TS, Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình, Giám đốc Học viện Quân y kể lại cho chúng tôi nghe ca mổ được coi là kỳ tích của y học Việt Nam khi lần đầu tiên thực hiện và phẫu thuật thành công ca ghép gan cứu sống bệnh nhân.

Đầu năm 2004, bệnh nhân Nguyễn Thị Diệp (9 tuổi, quê ở xã Hải Ninh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định) bị teo đường mật bẩm sinh, xơ gan mãn tính. Muốn cứu Diệp, chỉ có một cách duy nhất là ghép gan. Tìm được người cho gan phù hợp đã khó, phẫu thuật thành công còn khó gấp nhiều lần. Song, với tinh thần làm việc giàu trách nhiệm và không kém phần dũng cảm, sau thời gian chuẩn bị ngày 31-1-2004, cùng với sự hợp tác của các thầy thuốc, các nhà khoa học trong nước và quốc tế, tập thể cán bộ, y, bác sĩ Học viện Quân y đã tiến hành phẫu thuật ghép gan cho Diệp. Người cho gan chính là ông Nguyễn Quốc Phòng, bố của Diệp. Gần một ngày đằng đẵng trôi qua, các bác sĩ thực hiện phẫu thuật với sự tập trung cao độ trong khi mọi người đều hồi hộp chờ đợi kết quả. Cuối cùng, sau 18 giờ phẫu thuật, khi kíp mổ bước ra và nở nụ cười nhẹ nhõm, thanh thản, tất cả như vỡ oà lên trong sự xúc động dồn nén quá lâu. Ca mổ đã thành công, Diệp đã vượt qua giai đoạn nguy hiểm và chỉ cần điều trị, theo dõi để hồi phục sức khỏe.

Vào thời điểm ấy, ca mổ này được coi như một bước tiến đáng tự hào với y học Việt Nam. Ghép gan thành công không chỉ là bước tiến về ngoại khoa mà là thành tựu của nền y học Việt Nam bởi ghép gan liên quan đến nhiều lĩnh vực trong y học như gây mê hồi sức, gan học, vi phẫu, huyết học, truyền máu, sinh hóa, miễn dịch, chẩn đoán hình ảnh… Nguyên chủ tịch nước Trần Đức Lương, khi tới thăm Học viện Quân y và thăm cháu Diệp đã khẳng định: “Một thành tựu có tính lịch sử của y học Việt Nam… Đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của y học trong việc ứng dụng các thành tựu y học hiện đại của nhân loại vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân”. Với thành tích xuất sắc này, Học viện Quân y được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất.

Kể đến đây, Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình cười hiền, bộc bạch:

- Chúng tôi phấn khởi vì thành công đã đạt được, song trên hết là niềm tự hào và hạnh phúc khi góp phần mang lại niềm vui, sức khỏe cho bệnh nhân sau khi được cứu chữa.

Hòa chung trong niềm vui trong trẻo, hồn nhiên của cháu Diệp, sau khi chụp chung một tấm ảnh lưu niệm, tôi hỏi Diệp:

- Trước khi phẫu thuật, cháu có sợ không?

Cười thật tươi, Diệp vui vẻ trả lời:

- Lúc đầu cháu cũng sợ lắm, song được bố và các cô, các chú y, bác sĩ động viên nên cháu không sợ nữa. Sau khi phẫu thuật, mấy ngày đầu, cháu đau lắm, các cô y tá vào khám cho cháu luôn động viên và chúc cháu mau lành. Có cô còn kể chuyện cho cháu nghe và hát ru cháu ngủ nữa.

Nghe cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, ông Nguyễn Quốc Phòng cứ nghẹn ngào mãi mới thốt lên thành lời:

Tiếp cận và nắm vững kiến thức, cách sử dụng máy móc hiện đại là cơ sở để cán bộ, nhân viên Học viện Quân y cứu chữa, điều trị các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo
- Cảm ơn tập thể cán bộ, y, bác sĩ Học viện Quân y. Gia đình tôi sinh ra cháu lần thứ nhất, Học viện đã sinh ra cháu lần thứ hai khi chữa thành công căn bệnh hiểm nghèo của cháu.

Có thể hiểu được sự xúc động ấy của ông Phòng. Bởi khi con gái ông mắc bệnh hiểm nghèo, bằng sự đồng cảm, lòng nhiệt thành và kỹ thuật chuyên môn cao, các y, bác sĩ đã tái tạo sự sống, khôi phục sức khỏe cho cháu Diệp. Cái ơn ấy, chẳng người cha, người mẹ nào có thể quên.

10 năm cho 18 giờ

Để chẩn đoán chính xác, đưa ra quyết định táo bạo và phẫu thuật thành công các căn bệnh khó là quá trình tích lũy, tìm tòi, nghiên cứu khoa học không ngừng của tập thể cán bộ, y, bác sĩ Học viện Quân y. Trò chuyện về trường hợp của cháu Diệp, TS, Thượng tá Nguyễn Tùng Linh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ Học viện Quân y khẳng định:

- Để có được 18 giờ thực hiện thành công ca ghép gan này, chúng tôi đã trải qua 10 năm nghiên cứu không ngừng. Nếu không có kiến thức, sẽ không thể có điều kỳ diệu trong y học.

Trước ca phẫu thuật cho cháu Diệp, trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2004, Học viện Quân y chủ trì nghiên cứu hai đề tài khoa học cấp Nhà nước là “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến phục vụ ghép tạng” và “Nghiên cứu một số vấn đề ghép gan để thực hiện ghép gan trên người ở Việt Nam” do GS, TS Phạm Gia Khánh, Nguyên giám đốc Học viện làm chủ nhiệm đề tài. Niềm hạnh phúc vô bờ được thể hiện qua nụ cười mãn nguyện trong bức ảnh chụp tác giả đề tài nghiên cứu khoa học với các bác sĩ phẫu thuật trực tiếp cứu sống cháu Diệp đã phần nào cho thấy lòng tự hào và sự chia sẻ, đồng cảm với bệnh nhân của họ. Chính ánh mắt rạng ngời như biết nói ấy của tất cả mọi người đã khẳng định rằng, nếu không có niềm say mê thực sự, không có nền tảng kiến thức vững vàng, không có đề tài nghiên cứu khoa học mang tính đột phá ấy thì đã chẳng thể nào có được niềm vui trong dấu ấn lịch sử của y học Việt Nam. Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình cho biết:

- Theo thời gian, Học viện ngày càng có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị. Chúng tôi tâm niệm, muốn cứu chữa bệnh nhân thì phải am hiểu về y học, muốn am hiểu thì phải nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo. Ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ, chúng tôi phấn đấu đào tạo các cán bộ y tế hội tụ đủ cả tài và đức. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, nhân viên Học viện luôn cố gắng không ngừng.

Trước khi cho ra đời đề tài nghiên cứu khoa học về ghép gan trên người, năm 1991, Học viện Quân y đã triển khai nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số khía cạnh về ghép thận để phục vụ ghép thận trên người” do GS, TS Phạm Mạnh Hùng, Nguyên trưởng phòng Khoa học Công nghệ Học viện làm chủ đề tài. Sau một thời gian nghiên cứu, chuẩn bị, ngày 4-6-1992, với sự phối hợp của các nhà khoa học trong nước và quốc tế, Học viện Quân y thực hiện thành công ca ghép thận đầu tiên trên người ở Việt Nam. Trong ca ghép thận thứ hai thực hiện ngày 5-6-1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã tới chứng kiến, theo dõi quá trình ghép thận và biểu dương Học viện. Chính thành công này tạo tiền đề và mở ra cơ hội thực hiện thành công ghép gan và các cơ quan nội tạng trên người ở Việt Nam.

Khám phá mang tên “đội đặc nhiệm”

Trao đổi với cán bộ Học viện Quân y, tôi được mọi người cho biết, phát huy truyền thống, các thế hệ cán bộ nghiên cứu hiện nay thường xuyên trăn trở, suy nghĩ những vấn đề “nóng” để từ đó thực hiện đề tài khoa học, hướng tới mục đích cao cả là cứu chữa người bệnh mắc những căn bệnh hiểm nghèo.

- Với những cố gắng không ngừng để tạo nên nhiều đề tài khoa học có ý nghĩa thiết thực trong y học, vậy hiện nay, đề tài nào đang được Học viện Quân y tập trung nghiên cứu?- Tôi hỏi.

Không chút do dự, Thiếu tướng Vũ Đăng Khiên, Chính ủy Học viện Quân y cho biết:

- Học viện đang nghiên cứu đề tài ứng dụng miễn dịch điều trị ung thư. Hiện nay, việc chữa và điều trị bệnh ung thư ở Việt Nam chủ yếu theo ba phương pháp là hóa trị, xạ trị và phẫu thuật cắt bỏ khối u. Cả ba phương pháp này đều có những hạn chế nhất định và không đạt hiệu quả cao trong việc khống chế tế bào ung thư. Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp thứ tư là ứng dụng miễn dịch và chúng tôi đang nghiên cứu đề tài này.

Hào hứng với đề tài mới, tôi hỏi kỹ hơn thì được Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình giải thích: Trong huyết tương người có một loại tế bào có thể diệt được tế bào ung thư. Với các bệnh nhân ung thư, cách tốt nhất là phẫu thuật lấy loại tế bào này nhân lên gấp nhiều lần rồi đưa lại vào người. Các tế bào mới sẽ tìm diệt tế bào ung thư mà không gây tác dụng phụ hay ảnh hưởng đến sức khoẻ người bệnh. Phương pháp điều trị này đã được áp dụng ở nhiều quốc gia và có thể khống chế được 8 loại ung thư khác nhau.

- Chúng tôi gọi loại tế bào này là “đội đặc nhiệm” và hy vọng rằng, trong tương lai không xa, “đội đặc nhiệm” sẽ được “xung trận” để cứu chữa kịp thời cho các bệnh nhân ung thư - Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình khẳng định chắc nịch.

Khi chúng tôi đang trò chuyện, hai bố con cháu Diệp đến chào tạm biệt. Thấy cháu Diệp cứ bịn rịn với các cô chú, Thượng tá Nguyễn Huy Viện hỏi han, động viên cháu Diệp chăm chỉ học tập, nghe lời ông bà, cha mẹ. Biết cháu Diệp luôn đạt kết quả cao trong học tập, Thiếu tướng Nguyễn Tiến Bình cười tươi dặn dò:

- Cố gắng lên cháu nhé. Cháu mạnh khỏe và những điểm 10 của cháu chính là nguồn động viên quý giá nhất với các bác, các cô chú trong Học viện. Mọi người luôn quý mến cháu và chúc cháu có thêm nhiều thành tích trong học tập, xứng đáng là con ngoan, trò giỏi.

(còn nữa)

Nguyễn Đức Hiếu