QĐND - Hôm chúng tôi ở Nhà máy Lọc dầu Dung Quất còn nghe được những dư luận về một sự tồn đọng sản phẩm xăng dầu trong kho lên đến 750.000 tấn và 3.000 tấn xăng máy bay cho Công ty Dịch vụ bay miền Nam chưa sử dụng cũng như sự thiếu hiệu quả của nhà máy hiện đại này…

Chúng tôi cảm nhận luồng dư luận này là tất nhiên. Bởi nền công nghiệp nước ta chưa bao giờ có một nhà máy cùng một dây chuyền hiện đại như thế. Nếp nghĩ mang tính công nghiệp cao ở ta chưa hình thành và khi Nhà máy Lọc dầu Dung Quất cũng đang trong thời kỳ chạy rốt sản phẩm của nó cũng chưa thể một sớm một chiều làm quen được với thị hiếu tiêu dùng của dân ta, của các doanh nghiệp.

Phó tổng giám đốc Thương mại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất Nguyễn Việt Thắng cũng hiểu được phần nào tâm trạng sốt sắng của nhân dân về tính hiệu quả của nhà máy cũng như sự sẻ chia khó khăn của dư luận. Rồi anh cũng đưa ra những con số cụ thể như sức chứa  tổng kho thành phẩm của nhà máy chỉ là 380 nghìn mét khối. Với công suất vận hành như hiện nay, nếu 8 ngày liền không xuất được sản phẩm thì nhà máy không còn chỗ chứa. Còn 3000 tấn xăng dùng cho máy bay kể trên sẽ được Công ty Dịch vụ bay Miền Nam dùng trong nay mai. Anh cho biết thêm, do những dự báo trước đây về lượng tiêu thụ xăng dầu trong nước cao hơn thực tế khoảng 15%, cộng với việc nhà máy lại vận hành 100% công suất thiết kế nên lượng xăng dầu  trên thị trường dôi thừa là có thực. Việc dư luận góp ý, lên tiếng trong thời gian vừa qua cũng đã góp phần để các cơ quan chức năng phối hợp, gắn kết, giúp nhà máy tiêu thụ nhanh sản phẩm, thúc đẩy phát triển sản xuất tốt hơn.

Cán bộ và chuyên gia Trung tâm điều khiển theo dõi vận hành Nhà máy Lọc dầu Dung Quất.

 

Ngày nay nói đến  Dung Quất người ta thường nói đến một điển hình về sự đột phá trong việc thực hiện chính sách đổi mới về kinh tế của Việt Nam. Cảng Dung Quất I kín gió mùa, có độ sâu lý tưởng -20 mét, đủ khả năng xây dựng một cảng lớn với công suất 100 triệu tấn/năm và có thể đón tàu có trọng tải đến 200 nghìn tấn. Khu kinh tế Dung Quất, nơi có những cơ sở công nghiệp quy mô, trọng tâm là Nhà máy Lọc dầu. Sân bay Chu Lai đi vào khai thác đã giúp cho việc vào Nam ra Bắc vô cùng thuận lợi với đầy đủ phương tiện: Đường không, đường bộ, đường sắt và đường biển. Dung Quất  không những tạo nên tổ hợp phát triển  cho miền Trung mà còn là một địa thế chiến lược, bảo đảm cho việc hình thành hệ thống phòng thủ ven biển, bảo vệ các khu vực đặc quyền kinh tế và hỗ trợ các hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam... 

Trong tương lai, cảng Dung Quất 2 tại cửa biển Mỹ Hàn, rồi đô thị Vạn Tường – thành phố sinh thái ra đời sẽ là những chủ âm quan trọng trong bản giao hưởng hoành tráng về sự “tiên phong về mô hình" với những cơ chế chính sách mới được áp dụng trong bối cảnh mới của đất nước. Trong những con số đầy tự hào về kinh tế của khu Dung Quất thường được nhắc đến 120 dự án đầu tư với tổng vốn lên đến 8 tỷ USD, một tổ hợp công nghiệp nặng đầu tiên của Việt Nam bao gồm nhà máy lọc dầu, nhà máy đóng tàu, nhà máy chế tạo thiết bị nặng, nhà máy nhựa PP, nhà máy cán thép, nhà máy nhiên liệu sinh học… và theo đó là những con số tăng trưởng kinh tế của Dung Quất. Số thu ngân sách năm 2010 đạt 14 ngàn tỷ đồng, tăng 28 lần so với năm 2005 và cứ đà này thu ngân sách của Dung Quất vào năm 2011 sẽ đạt 20 ngàn tỷ đồng. Trở thành động lực chủ yếu để tạo ra sự bứt phá của tỉnh Quảng Ngãi ở một số chỉ tiêu cơ bản như tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm là 18,53%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 53,6%, tỷ trọng công nghiệp tăng từ 30% lên 58,3%... Vậy là một làng chài nên thơ nhưng nghèo nàn, vắng lặng của thi sĩ Tế Hanh đã trở thành một khu công nghiệp hiện đại tràn ngập ánh đèn và sắp tới hóa thành một thành phố Dung Quất công nghiệp, văn minh.

Dấu ấn của sự chuyển biến có thể coi là thần kỳ này bắt đầu từ sự kiện diễn ra vào ngày 19-9-1994 tại xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thị sát Vịnh Dung Quất và nghe báo cáo về dự án cảng nước sâu và Khu công nghiệp Dung Quất. Nhìn biển xanh bao la rập rờn sóng, làng chài hiền hòa với những căn nhà nhỏ nhoi, và những tấm lưới phơi trên trảng cát trắng, vị Thủ tướng luôn lo nghĩ về sự phát triển của kinh tế đất nước và đời sống của người dân đã thốt lên “vũng Dung Quất đẹp quá, nó như nàng tiên cá đang ngủ”. Hai tháng sau, với tầm nhìn rộng mở về tương lai và sự phát triển những tiềm năng đang tiềm ẩn ở Dung Quất, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký quyết định số 658/TTg về việc chọn địa điểm Nhà máy Lọc dầu Dung Quất và quy hoạch khu kinh tế trọng điểm miền Trung. Đồng thời cho phép Dung Quất - Chu Lai được áp dụng, thử nghiệm cơ chế chính sách để rút kinh nghiệm, hội nhập sâu hơn với kinh tế.

16 năm đã trôi qua sau sự kiện lịch sử đó, Dung Quất đã biến đổi. Cùng với những kết quả đáng tự hào về kinh tế, mục tiêu lo cho đời sống nhân dân đã được hiển thị. Năm 2010 tổng số vốn đăng ký của 120 dự án lên đến con số 8 tỷ USD đã thực hiện được xấp xỉ 5 tỷ USD và đã tạo được hơn 12 nghìn việc làm cho dân trong vùng. Trong số 1.071 kỹ sư, công nhân kỹ thuật được đào tạo trong nước và nước ngoài để có kiến thức và kỹ thuật vận hành thiết bị hiện đại của Tập đoàn Dầu khí ở khu công nghiệp Dung Quất có 510 kỹ sư và công nhân (chiếm tỷ lệ 48,75%) là người Quảng Ngãi. Vậy là  con em của những ngưòi dân của làng chài và của những người bắt cá bống trên sông Trà được đào tạo bài bản, trưởng thành để bắt tay vào điều hành công nghiệp hiện đại. Chúng tôi nói con em là vì chúng tôi chưa thấy ở đâu công nhân và những nhà quản lý các cấp lại trẻ như ở khu công nghiệp Dung Quất. Phải chăng một ngành công nghiệp hiện đại nhưng cực kỳ mới mẻ ra đời đã làm trẻ hóa đội ngũ cán bộ trí thức, công nhân ở đây. Nhà máy Polyprotilen - một trong những cơ sở chế biến sản phẩm là chế phẩm của công nghệ lọc dầu có vốn đầu tư lên đến 270 triệu USD và đang trong thời kỳ chạy thử tải nhưng do thiết bị chuẩn nên đã cho sản lượng đã xấp xỉ công suất thiết kế. Mỗi ngày nhà máy cho ra 150 tấn sản phẩm, một năm tung ra thị trường 450 nghìn tấn đáp ứng được 50% nguyên liệu nhựa trong của toàn quốc.

Chúng tôi không khỏi choáng ngợp khi bước vào phân xưởng mênh mông và có vẻ vắng lặng của nhà máy. Những hệ thống rô-bốt  điều khiển dây chuyền một cách chính xác từ khâu sản xuất đóng gói và đưa ra ô tô vận tải. Giám đốc nhà máy Lê Văn Đức, người Tam Kỳ, Quảng Nam, sinh 1974, tu nghiệp tại Mỹ và về nước năm 2003, cắt nghĩa sự "vắng lặng" của phân xưởng sản xuất. Anh cho biết: Một ca sản xuất tổng cộng có 11 người, trong đó 8 dành cho công nghệ và 3 dành cho đóng gói. Công việc của cả 11 người này tưởng như đơn giản, nhàn tản nhưng họ là những người đa phần được đào tạo từ các quốc gia có nền công nghệ hóa dầu phát triển như Mỹ, Đức, Ru-ma-ni… Phải đạt trình độ đến tầm nào thì mới có khả năng nhìn vào tín hiệu thông số phòng đột biến và điều chỉnh cho hợp lý từ khâu đầu trong chế biến đến khâu cuối cùng là vận tải sản phẩm ra kho, hay đưa thẳng đến nơi cần cung cấp.

Một làng chài với cảnh vật quen thuộc tồn tại hàng vài trăm năm, đột nhiên biến đổi mạnh mẽ để thay vào đó là những tổ hợp, những khu liên hợp công nghiệp hiện đại nên còn nhiều bỡ ngỡ và không tránh khỏi những khúc mắc.

Ngay trong Đề án phát triển Khu kinh tế Dung Quất thành Thành phố trong giai đoạn 2010-2015 và các năm tiếp theo của tỉnh Quảng Ngãi dù được các cơ quan có thẩm quyền ủng hộ về mặt chủ trương, song không ít bộ, ngành đưa ra những phản biện. Cụ thể, Bộ Nội vụ cho rằng nhiều tiêu chí đô thị của Dung Quất chưa đáp ứng được yêu cầu của thành phố - đô thị loại 3 như các tiêu chí về hạ tầng, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp; Bộ Tài chính có ý kiến là không thể ấn định tỷ lệ nguồn thu trên địa bàn thành phố Dung Quất như đề án; Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì khẳng định, Quảng Ngãi nằm trong vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, biến đổi khí hậu và quan trọng là tỉnh có đảo tiền tiêu–Lý Sơn, ngư dân có truyền thống lâu đời đi biển đánh bắt cá xa bờ, song đề án chưa được luận chứng rõ cơ chế chính sách, đặc thù về an ninh - quốc phòng… Ông Nguyễn Xuân Thủy, Trưởng Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất còn nhận rõ những khó khăn ngay trước mắt và bộc bạch, việc thu hồi đất của dân lúc này không đơn giản, một phần là do chúng ta chưa giải quyết được bài toán lao động phổ thông trên địa bàn. Việc quy hoạch khu tái định cư xa khu công nghiệp làm dân không được hưởng lợi từ dịch vụ, nên đời sống chưa mấy được cải thiện. Chính sách hỗ trợ lao động còn thấp nhưng thủ tục lại rắc rối nên nhiều người không mấy thiết tha. Giá đất lên nhanh đến chóng mặt mà giá đền bù lại quá thấp, người dân cảm thấy có phần thiệt thòi… Song, ông Trưởng ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất vẫn khẳng định, đại đa số ngưòi dân của gần mười xã của huyện Bình Sơn đã chấp nhận sự thay đổi có tính lịch sử khi khu công nghiệp tiến hành công tác giải phóng mặt bằng.

Tranh thủ buổi trưa chúng tôi đến thăm nơi ở mới của kỹ sư Nguyễn Công Danh, nhân viên an toàn sức khỏe, môi trường của nhà máy nhựa Polyprotilen và gặp bố anh là ông Nguyễn Công Ba. Trong câu chuyện chúng tôi đựơc biết, ông Ba năm nay đã vào tuổi 61, năm 1966 từng tham gia cuộc chiến đấu trong chiến dịch Ba Làng An chống lại lính đánh thuê của Pắc Chung Hy. Ông bảo, nhà ông là một trong 88 nhà nằm trên khu vực nhà máy nhựa trong tổng số 334 hộ của khu vực Dung Quất cần di chuyển. Ông Ba chân thành bộc bạch: “Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, đang ở yên lành mà dọn đi ai mà chẳng tiếc. Nhưng nghĩ đến sự phát triển của quê hương, có sự phát triển như thế con cháu chúng tôi mới không chỉ biết quăng chài mà còn thành kỹ sư trong một nhà máy mà có lần vào tham quan ông cũng không hiểu vì sao những chiếc máy lại có thể làm được cả những động tác khéo léo của con người”. Dừng một lát ông hạ giọng nói tiếp: “Cũng phải nói chính sách đền bù của nhà nước có thể có người còn thắc mắc, nhưng theo tôi, cơ bản là đã nghĩ đến điều kiện và nguyện vọng của người dân”.

Nghe tâm sự của một lão nông làng chài Dung Quất chúng tôi hiểu được sự mong mỏi của ngưòi dân vùng chài nơi đây đối với sự trưởng thành, thay đổi cho sự phồn vinh của quê hương mình. Chúng tôi lại chợt nhớ đến lời của ông Đinh La Thăng, Chủ tịch thành viên của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam: “Một nền công nghiệp mới ra đời không phải mọi người kể cả các vị làm công nghiệp lâu năm đã hiểu. Nhưng bằng nhiệt tình, sự hiểu biết cùng những nỗ lực của mỗi cá nhân trong Tập đoàn, chúng tôi cố gắng tạo ra những thành quả tốt nhất để góp phần phát triển nền công nghiệp nước nhà  cùng những gì để bảo đảm cho sự no đủ, ổn định có việc làm cho ngưòi dân ở những địa phương chúng tôi thực hiện dự án. Đó cũng chính là sự giải thích tốt nhất về hiệu quả của một tập đoàn Nhà nước”.

Vũng Dung Quất – quê hương của những người dân chài bỗng trở thành mảnh đất kỳ diệu trong sự đi lên của một nền công nghiệp hiện đại chính bởi những cách nghĩ, cách làm như vậy...

Đỗ Nam Thắng- Nguyễn Hiếu