Kỳ III: Bình minh lên trời Pa Ủ

QĐND Online - Từ những số phận khô cằn bởi “tiên nâu”, á phiện, của sự trông chờ, ỷ lại và của cả cái thói lười lao động nay tôi đã thấy có vài điểm sáng lóe lên nơi chân trời biên giới. Sự đầu tư của nhà nước, sự quan tâm của tỉnh, các cấp, các ngành cùng vào cuộc để xây dựng chung một tương lai cho người La Hủ nơi này để những ước mơ, số phận mọc lên từ đất này thêm tươi xanh, để bình minh của một thời kỳ mới sẽ sớm lên trên trời Pa Ủ.

Đất “lá vàng” đã không còn đói

Trong những nỗi lo sợ của người dân nơi đây, đói đã từng là nỗi kinh hoàng của người La Hủ (ở xã Pa Ủ). Đã có thời điểm trong những báo cáo thống kê về đói nghèo của Pa Ủ số tháng thiếu đói của người dân chiếm tới gần nửa năm! Đói nghèo triền miên nên mỗi khi nhắc tới địa danh này là người ta lại nghĩ tới một “ù tỳ quốc” vừa tối tăm về tri thức, lạc hậu về khoa học và đói nghèo về kinh tế.

“Ấy là chuyện của những năm trước thôi, nay người dân nơi đây không lo đói nữa rồi” – Trung tá Phạm Tiến Nam – Chính trị viên đồn biên phòng 309 (Pa Ủ) nói. “Đói làm sao được khi mỗi tháng Nhà nước đã cấp hỗ trợ mỗi nhân khẩu 10kg gạo. Như vậy là từ cụ già tóc bạc tới cháu bé mới ẵm ngửa cũng đều có 10kg gạo để sử dụng trong một tháng. Nếu một gia đình có 5 người thì dù là già, trẻ, gái trai thì một tháng cũng có nửa tạ gạo để ăn. Tuy đây không phải là con số lớn nhưng rõ ràng nó đã cải thiện đáng kể tình trạng đói ở đây. Đến nay trên địa bàn đã không còn gia đình nào bị đứt bữa nữa”.

Sự quan tâm của Nhà nước đã giúp người La Hủ nơi này không còn đói và sự hỗ trợ đó còn tạo điều kiện cho họ làm giàu. Nằm ở một xã biên giới với diện tích gần như hoàn toàn là đồi núi, rừng già nên giữ vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết lượng nước trong sông suối trong vùng và cung cấp nước cho sông Đà. Vai trò của 21 xã biên giới của tỉnh Lai Châu nói chung và của riêng xã Pa Ủ đã được Nhà nước quan tâm. Để đồng bào gắn bó hơn với rừng, thôi phá rừng, đốt nương và du canh du cư từ trước tới nay Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách ưu đãi về rừng cho khu vực này. Mới đây, chính sách bảo vệ rừng cho người dân thuộc khu vực biên giới của tỉnh Lai Châu (gọi tắt là chương trình 21 xã biên giới) đã nâng số tiền bảo vệ rừng ở khu vực này từ 50.000 đồng/ha/năm lên 200.000 đồng/ha/năm. Với diện tích 32.428ha với đa số diện tích là rừng nằm trong diện được bảo vệ, hàng năm Chính phủ đã cấp về đây một khoản tiền tương đối lớn (2,4 tỷ đồng). Số tiền này chia bình quân cho toàn bộ số hộ dân trong xã cũng lên đến hơn 5,2 triệu đồng/hộ/năm. Nếu đem so sánh con số đó với thu nhập bình quân của đồng bào miền xuôi chắc chẳng thấm tháp gì nhưng so với bà con nơi đây thì rõ ràng đó là một nguồn thu lớn. Một khoản tiền lớn “từ trên trời rơi xuống” mà có lẽ từ xưa đến nay chưa khi nào thu nhập bình quân một gia đình người La Hủ ở Pa Ủ có được. Khoản tiền này nếu chỉ sử dụng trong sinh hoạt, chi tiêu cộng với chế độ hỗ trợ 10kg gạo/người/tháng không có lý do nào để nói rằng nơi đây còn có hộ đói, đứt bữa nữa.

Cán bộ y sĩ đồn biên phòng 309 chăm sóc sức khỏe cho nhân dân bản Tân Biên.

Mọi sự giúp đỡ, trợ cấp, hỗ trợ của các cấp chính quyền, các cơ quan đoàn thể cho vùng đất này chắc chắn sẽ không thể nào đủ được. Muốn phát triển, làm giàu, muốn xóa đi cái dớp đói nghèo đã ngàn đời đeo đẳng thì không ai có thể giúp đỡ nhân dân Pa Ủ ngoài chính họ. Và, đến giờ có thể khẳng định, người La Hủ ở đây đã bắt đầu biết tự đứng trên đôi chân của chính mình. Minh chứng đầu tiên đó là sự ổn cư của bà con. Biệt danh “dân tộc lá vàng” của người La Hủ không phải ngẫu nhiên mà có, cái tên ấy sinh ra theo tập quán sinh sống của bà con. Đó là du canh, du cư. Theo sự giải thích của nhiều người, dân tộc La Hủ thường sống thành từng cộng đồng nhỏ, họ dựng nhà ở những nơi đồi núi đất tốt, dễ làm nương, nhà của họ dựng tạm bợ bằng cây, lợp lá rừng. Khi lá lợp nhà khô héo cũng là lúc kết thúc một mùa rẫy và họ lại di cư sang trảng rừng khác để tiếp tục sinh sống cuộc đời di chuyển như vậy. Cái tên “dân tộc lá vàng” sinh ra từ đó. (Cũng có một số tài liệu nói rằng sở dĩ người La Hủ có tên gọi khác là do hễ trong nhà có người qua đời là cả dòng tộc lại chuyển nhà. Tuy nhiên lý giải này không được thuyết phục bằng giả thuyết trên bởi thực tế người La Hủ vốn có tập quán du canh, du cư). Người La Hủ đã từng thừa nhận cái tên đó nhưng chắc sau này người ta sẽ chỉ biết đến một “dân tộc lá vàng” trong quá khứ bởi nay bà con đã thôi di chuyển hàng năm qua những cánh rừng để phá nương làm rẫy mới. Bây giờ từ Hà Xi, Hà Nê, Thăm Pa, Tân Biên, Pa Ủ, Khò Ma… tất cả đều đã ổn cư và tập trung sản xuất chỉ trên một mảnh đất. Tại bản Tân Biên, nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn của bộ đội biên phòng bà con cũng đã biết sản xuất lúa nước. Trưởng bản Pa Ủ - Thàng Phi Xè phấn khởi: “Bây giờ người La Hủ đã biết làm lúa, làm ngô trên một mảnh đất rồi, không phải bỏ nương đi nữa. Nhà cửa thì cũng đã xây dựng kiên cố rồi. Bây giờ ở đây chẳng còn căn nhà “lá vàng” nào đâu!”.

Trước đây điều mà người dân nơi này không lo nhưng lại làm đau đầu các cấp lãnh đạo vì nó ảnh hưởng rất lớn tới công tác xóa đói. giảm nghèo đó là nạn nghiện thuốc phiện. Đã từng có thời điểm nhà nhà hút thuốc phiện, người người trồng thuốc phiện, hầu hết tất cả các hộ dân đều có bàn đèn. Kinh tế gia đình cứ thế mà teo tóp dần theo những cơn phê triền miên của người là trụ cột gia đình hay hình ảnh dịu hiền của người giữ vai trò là nữ công gia chánh. Kinh tế suy sụp, làng bản tơ tướp, đất này đã trở thành địa danh ưa thích của thuốc phiện và sự ngự trị của nó có thời điểm đã khiến cho quá nửa dân số địa phương đắm chìm trong khói nâu đến nỗi ngay cả hai ông phó chủ tịch xã cũng không thoát khỏi.

Nay Pa Ủ đã khác, theo thống kê trên địa bàn chỉ còn 114 người nghiện thuốc phiện. Dưới sự vào cuộc vận động của Đồn biên phòng 309, các cấp, các ngành của huyện, tỉnh cùng chung tay người dân cũng đã nhận ra tác hại của thuốc phiện và đa số đã đoạn tuyệt với nó. Những người không đủ nghị lực tự cai tại cộng đồng đã được đưa lên Đồn biên phòng 309 cai nghiện và hiệu quả cũng khá cao. Lên đây chúng tôi còn được nghe người dân kể về một vài tấm gương sau khi thôi cơn vật thuốc đã đem cả dọc tẩu đi chôn để đất đen mãi mãi vùi lấp quá khứ u buồn của đất này.

Sẽ có một tương lai

Chúng tôi đến thăm nhà phó chủ tịch xã Thàng A Lòng khi anh đang chuyển nốt chỗ cột, kèo mới lấy để dựng lại nhà. Anh Lòng trước đây cũng là một trong những “đệ tử ruột” của “nàng tiên nâu”. Mọi nghị lực, cố gắng của anh và gia đình để cách li anh khỏi con đường xấu đó đều không hiệu quả. Cuối năm 2007, Đồn biên phòng 309 mở đợt cai nghiện tập trung tại đồn, anh cũng tự nguyện ghi tên tham gia. Sự giúp đỡ của cán bộ, chiên sĩ biên phòng cùng nghị lực bản thân anh đã có thể nói không với thuốc phiện.

Phó chủ tịch UBND xã Pa Ủ – Thào A Lòng - một người vừa cai nghiện thành công đang chuẩn bị vật liệu để dựng nhà mới.

Vừa làm vừa trò chuyện anh cho kể: “Mình cũng ngu lắm! Thấy bạn hút mình cũng muốn thể hiện mình tài giỏi, dám chơi thế là… May quá! Bây giờ cai được thuốc rồi, coi như cuộc đời tôi lại được đi trên cái đường thẳng, không còn sợ cắm đầu xuống vực nữa”. Chuyện nổ như ngô, vui miệng anh kể cả những nhọc nhằn, tủi khổ khi vẫn còn nghiện thuốc phiện: “Là phó chủ tịch xã mà nghiện thì làm sao khuyên được người dân bỏ thuốc. Rồi đến chính tôi cũng chẳng lo được cho mình ngày nào cũng có thuốc để hút. Kinh tế thì khỏi phải nói cũng biết nghèo ở cỡ nào. Mà tôi cũng chẳng nhớ những ngày đó vợ con tôi làm sao mà sống được cơ. May mà giờ được làm người trở lại. Bây giờ tôi còn được tổ chức tin tưởng coi như một tấm gương trong cai nghiện nên giao cho làm tổ trưởng tổ 3 tuyên truyền chống tái trồng cây thuốc phiện đấy”.

Hoàn cảnh cũng tương tự anh Lòng, Ly Phì Hừ – Phó chủ tịch UBND xã Pa Ủ cũng vậy. Cũng làm cán bộ cấp xã, nhưng nhà cửa thậm chí bữa ăn của gia đình anh cũng không thể lo được vì anh cũng nghiện nặng. Tiền lương, phụ cấp, các khoản thu nhập do nhà nước chi trả chỉ đủ để anh Hừ dùng thuốc phiện một cách dè sẻn trong vòng một tháng. Sau khi đi cai nghiện về anh quyết tâm làm lại cuộc đời. Khi chúng tôi đến anh đang cùng vợ khiêng mấy bao thóc nặng trịch từ sân phơi vào nhà. Trong nhà cả một nửa gian được kê kệ gọn gàng làm nơi chứa thóc. Vui mừng anh nói: “Đáng lẽ tôi đã có ngần này thóc từ lâu rồi nhưng đốt hết rồi. Giờ nhìn thấy nhiều thóc thế này cũng sướng. Nếu trước đây mình quyết tâm cai nghiện có phải cuộc đời đã “lên hương” từ lâu rồi không”. Cái anh này cũng đến là khéo nói. Nhưng đúng là nếu ai cũng biết, cũng nhận thức được tác hại và cắt đứt thuốc phiện thì chắc đất này cũng chẳng đến nỗi phụ người để cái đói cứ đời đời theo đuổi đến thành dớp.

Trên đường từ bản Tân Biên sang bản Thăm Pa chúng tôi qua đám ruộng lúa nước của bản Tân Biên. Đám ruộng bậc thang này là do cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng 309 khai hoang cho bà con để người dân biết cách làm ruộng nước. Đến nay nhiều bản trong xã đã và đang tích cực tìm địa điểm có thể khai hoang để làm lúa nước mà phát triển kinh tế.

Tuy vẫn còn đói ngèo (tới 70% số hộ), vẫn còn người nghiện thuốc phiện và nhiều người vẫn còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước nhưng với những sự thay đổi có tính bước ngoặt như ổn canh, người dân chịu cho con cái đi học, thậm chí có người còn đi học xa. Đáng nói nhất là tinh thần quyết tâm rời bỏ thuốc phiện, đồng bào đã biết tố giác người nghiện, không còn trồng cây thuốc phiện, những ruộng lúa nước đã dần trở thành điểm canh tác chính của bà con… những điều này đã cho thấy dù còn mịt mù trong việc tìm kiếm một tương lai phồn thịnh nhưng đã có những đốm sáng lóe lên trong những giấc mơ đổi đời của người dân.

Những thay đổi trên dù còn chậm nhưng nó chính là những điểm sáng và điểm nhấn để nơi này những năm sau sẽ không còn mang cái tên xã đói kinh niên, dân tộc đặc biệt khó khăn cần nhà nước đặc biệt quan tâm và hỗ trợ nữa. Hy vọng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Pa Ủ biết cách và quyết tâm nhân những mảng sáng đầu tiên này thành những quần lửa thắp lên bình minh nơi chân trời biên viễn này.

Bài, ảnh: Khánh Kiên

Đất La Hủ bật mầm (kỳ 1)

Đất La Hủ bật mầm (kỳ 2)