Câu chuyện về một vùng đất hoang hóa được đánh thức, đem lại những lợi ích kinh tế cho con người - Đồng Tháp Mười - cứ thôi thúc tôi vượt qua bao dọc ngang kênh rạch để tìm đến.
Kỳ tích
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Nhà thơ Nguyễn Bính đã viết những câu thơ về Đồng Tháp Mười:
Bao la bát ngát
Bưng sậy lên hoang
Mùa nắng đất khô cỏ cháy
Mùa mưa nước ngập lan tràn
Cò trắng nghìn năm bay chẳng dứt
Chân trời bốn bể rộng thênh thang
Những câu thơ của Nguyễn Bính đã khái quát được khung cảnh Tháp Mười hoang sơ với bạt ngàn lau sậy, những cánh đồng cỏ đế, đưng bàng, năn, nỉ, cỏ mồm, sọp, mua, bình bát, lúa ma, lúa trời… xen lẫn màu xanh bạt ngàn, tít tắp của rừng tràm. Và cũng thật lạ, loài cây tràm cho một thứ tinh dầu thơm thoang thoảng, đầy quyến rũ. Cái hương thơm ấy, nếu bạn một lần “trót” được thưởng thức là cứ mê hoặc mãi, chẳng thể nào quên. Với những người chưa từng một lần đặt chân tới vùng đất Đồng Tháp Mười, thì chí ít cũng đã được chiêm ngưỡng vùng đất này qua bộ phim nổi tiếng “Cánh đồng hoang” do cố nghệ sĩ Lâm Tới đóng vai chính.
Nhắc đến Đồng Tháp Mười người ta không thể nào không kể đến một nơi có nhiều loài chim, trăn, rắn sinh sống. Vùng đất này, bên cạnh sự hoang sơ, thơ mộng, còn có nỗi kinh hoàng, ám ảnh bước chân những người đi mở đất bởi đầy rẫy những loài rắn cực độc: hổ chúa, hổ mang… (rắn hổ chúa trưởng thành có trọng lượng từ 18 đến 20kg, chiều dài tới 4,5 mét). Biết bao người dân đã trở thành nạn nhân của loài rắn này.
Đồng Tháp Mười, hay còn gọi là Cánh đồng chó ngáp, đất đai được hình thành trên nền trầm tích đầm lầy ven biển từ hàng nghìn năm trước. Đây là loại đất giàu hữu cơ và phèn - loại đất phèn đỏ như nước cau và xanh như mắt mèo. Các nhà khoa học trên thế giới xếp Đồng Tháp Mười là vùng nhiễm phèn nặng nhất trong số hơn 2 triệu héc-ta đất nhiễm phèn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Về địa hình, Đồng Tháp Mười có dạng lòng chảo với cao trình phổ biến từ 0,6 đến 0,75m so với mực nước biển, đặc biệt có nơi cao trình thấp từ 0,4 đến 0,5m. Do đó, lũ hằng năm ở sông Cửu Long tràn về thì vùng Đồng Tháp Mười trở thành “chiếc túi” chứa nước nên bị ngập nặng nhất. Và cũng chính vì lý do đó, nên lượng phèn khu trú hằng năm ở đây không được giải phóng, mà còn tích tụ, tạo nên thứ đất chua mặn, có nhiều đốm vàng rỉ sắt, các nhà khoa gọi chung là Acid Sulphate Soil.
Tổng diện tích tự nhiên của vùng Đồng Tháp Mười vào khoảng hơn 600.000ha. 60% diện tích ngày nay thuộc tỉnh Long An, phần còn lại là của tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp. Huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang nằm ở phía đông Đồng Tháp Mười. Đặc biệt, đất đai cả vùng đều bị nhiễm phèn nặng. Cũng chính nguyên nhân này khiến cho giấc mộng chinh phục của biết bao thế hệ cha ông ta thuở xưa đành dang dở. Chẳng riêng người Việt chúng ta từng nếm mùi thất bại khi chinh phục vùng đất này, mà ngay tham vọng của người Pháp, người Mỹ, Nhật, Hà Lan… với nhiều chuyên gia đã đành dừng bước trước một vùng đất hoang sơ, giàu tiềm năng này.
Khi đó, nguồn nước nhiễm phèn nặng, mùa khô thiếu nước ngọt, mùa mưa nước ngập trắng đồng, nỗi lo mất mùa luôn canh cánh trong lòng người dân. Cơ sở hạ tầng chỉ là một con số không tròn trĩnh, từ thủy lợi, đến điện, đường, trường, trạm. Chính vì thế “túi phèn” Đồng Tháp Mười chỉ có lưa thưa ít người dân sinh sống. Mật độ dân số 6 người/km2, đời sống người dân phải chịu cảnh cơ cực, tỉ lệ hộ nghèo chiếm tới 45%, hộ đói 5%. Cuộc sống của người dân rơi vào tình cảnh chạy ăn từng bữa. Cũng vì cuộc sống khó khăn, nên cái chữ càng khó đến với trẻ em vùng đất này. Thật khó ai có thể ngờ, hình dung ra viễn cảnh Đồng Tháp Mười được đánh thức, chinh phục bằng chính trí tuệ của người Việt.
Trước mắt tôi, Đồng Tháp Mười không còn là một vùng đất hoang hoá chỉ dành cho cây năn, cây lác ngự trị mà nay thực sự đã nhường chỗ cho cánh đồng lúa xanh mơn mởn đương thì con gái. Những vườn cây trĩu quả, cánh đồng khóm (dứa), rừng tràm, bạch đàn trải dài ngút tầm mắt... Từ quốc lộ 1A, rẽ vào tỉnh lộ 865, qua khỏi cầu chùa Phật Đá, trung tâm hành chính huyện Tân Phước sừng sững, bề thế, trang nghiêm. Trên nền xanh bát ngát của tràm, của khóm, hệ thống cơ sở hạ tầng: trường học, trung tâm y tế và những ngôi nhà kiên cố kiêu hãnh vừa được xây mới. Thị trấn Mỹ Phước-một đô thị vùng phèn đất đang phát triển phồn thịnh sung túc. Chợ Tân Phước khang trang, sạch đẹp, các khu dân cư vượt lũ qui mô hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ của thị trấn hôm nay đã tăng trưởng gấp 10 lần so với những ngày đầu mới thành lập.
Nguyên Bí thư tỉnh ủy tỉnh Tiền Giang, ông Huỳnh Văn Niềm - người có nhiều năm gắn bó với công cuộc khai hoang Đồng Tháp Mười-bộc bạch: Khi bắt tay vào khai hoang, mình cũng biết là rất khó bởi vì vùng đất nhiễm phèn rất nặng. Trước đây, đoàn gồm các nhà khoa học của Hà Lan tới Đồng Tháp Mười khảo sát và họ đã cảnh báo đây là vùng đất không thể khai hoang được, bởi vì nếu khai hoang thì đất đai cũng khó có thể canh tác và phá vỡ hệ sinh thái vùng thì rất nguy hiểm. Băn khoăn, trăn trở và lo lắng là tâm trạng chung của đội ngũ cán bộ và cả người dân lúc bấy giờ. Có người hoài nghi, thậm chí có cả những ý kiến phản đối khá gay gắt, quyết liệt. Họ viện dẫn rằng, các nhà khoa học còn lắc đầu, bó tay huống hồ… Công cuộc chinh phục thành công. Một lần nữa sức mạnh và trí tuệ Việt Nam lại tỏa sáng. Giọng nói của nguyên bí thư tỉnh ủy Huỳnh Văn Niềm trầm ấm và xúc động. Tôi hiểu tâm trạng của con một người từng một thời giữ nhiệm vụ “tổng tư lệnh” cuộc khẩn hoang, đánh thức đất Tháp Mười. Đương nhiên, với vai trò và nhiệm vụ lớn như vậy, sức ép của công việc đè nặng lên vai ông và những người đồng quan điểm với ông lúc đó hẳn không phải là nhỏ. Nếu chẳng phải là người quyết đoán, dũng cảm, dám chịu trách nhiệm thì ắt hẳn… Khi chúng tôi đề cập đến chuyện xưa, ông gạt đi và bảo: Chuyện cũ nhắc lại làm chi, chúng ta chinh phục thành công Đồng Tháp Mười là mừng rồi!
Ông Ngô Văn Mân, Phó chủ tịch UBND huyện Tân Phước, nét mặt rạng rỡ kể: Ngay từ khi thành lập huyện, chúng tôi bắt ngay vào công việc tiến hành đào, nạo vét hơn 250km tuyến kênh cấp 1, 2, 3; xây dựng và hoàn thiện 250km đê bao chống lũ. Nhờ có các tuyến kênh dẫn nước, độ phèn trong đất giảm dần cho tới khi đủ điều kiện để trồng trọt. Trước kia, tổng diện tích lúa, mía, khóm ở Tân Phước chỉ khiêm tốn chừng 13.000ha, sau khi hệ thống thủy lợi được xây dựng, diện tích trồng lúa được mở rộng thêm 4.000ha, với năng suất lúa từ 2,8 đến 4,5 tấn/ha, diện tích khóm tăng thêm 5.500ha. Tổng diện tích khóm hiện nay là 8.500ha, sản lượng khoảng 100.000 tấn/năm, 10.000ha tràm. 6 cụm tuyến dân cư vượt lũ được xây dựng, ổn định chỗ ở cho hơn 3.500 hộ dân. Riêng hệ thống đường giao thông nông thôn cũng được đầu tư xây dựng: trải nhựa 17km đường liên tỉnh, làm 865,8km đường 867, gần 5.500km đường liên xã, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại và lưu thông hàng hóa ở các vùng sâu. Vùng đất Đồng Tháp Mười đã được bàn tay, khối óc của người Việt đánh thức sau hàng nghìn, hàng vạn năm ngủ quên. Đến nay, hệ thống nước sạch đã cung cấp cho 65% hộ dân toàn huyện. Lưới điện cũng được kéo về tận xã, ấp phục vụ cho 80% hộ dân, góp phần xua đi cái tối tăm nghèo nàn, lạc hậu. Đất được đánh thức, thu hút 11.000 lao động từ khắp các vùng miền đổ về Tân Phước lập nghiệp.
(Còn nữa)
NGUYỄN KIỂM