QĐND Online - Chỉ cách trung tâm Thủ đô Hà Nội chưa đầy một tầm tiếng gọi, mùa nước chỉ cần vài phút đi đò ngang còn mùa khô thì chân không có thể lội từ bờ này bờ nọ thế mà cái khoảng cách về cuộc sống của những người dân khu vực bãi giữa sông Hồng (phường Tứ Liên – Tây Hồ) với phố phường bên kia sông lại lớn đến vậy. Cũng nằm trong địa phận Thủ đô nhưng hình như rất ít người biết về vùng đất ấy, một dải đất không tên trên bản đồ, những người dân ở đó cũng gần như không tên, họ sống lầm lũi và tự nhiên, thời gian tính bằng mùa con nước bằng những vụ thu hái, những lần cơi nới lều lán tránh lũ…
Có người gọi nơi này là xóm bãi, xóm giữa, người văn chương chút gọi nó là xóm ngụ cư (của những người thập phương về đây cư ngụ) lại có người “hình sự” hơn tí nữa gọi nó là “xóm liều” còn với cảm nhận của mình tôi lại nghĩ đó là xóm của những người nghèo khổ. Họ nghèo khổ nhưng họ không cam chịu, họ không giàu tiền bạc nhưng lại chẳng hề nghèo tình nghĩa. Những gì tôi đã được thấy, được chứng kiến và cảm phục tôi dám phản bác lại những ý kiến cho rằng tất cả dân xóm bãi đều là dân xóm liều.
Đời thường đất bãi
Chưa đầy một phút đò ngang chúng tôi đã thoát khỏi cái ngột ngạt, ồn ã và xô bồ của phố phường Hà Nội, tới một nơi chỉ có bạt ngàn xanh tươi, gió, cát và dòng nước đỏ ngầu phù sa của sông Hồng – bãi giữa. Bây giờ là mùa nước nên cả bãi như hòn đảo cô lập giữa biển nước, phương tiện duy nhất để người dân giao lưu với bên ngoài đó là con đò ngang qua nhánh phụ của sông Hồng. Thực ra bến đò này cũng mới chỉ hoạt động lại được mấy ngày khi nước sông lên, chỉ cách đây mấy tuần vào từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 4 nước sông không ngừng rút đến mức dòng phụ này người dân có thể đi xe máy từ bãi vào bến đò bây giờ.
 |
|
Đò ngang là phương tiện duy nhất nối xóm bãi với bờ |
Chủ con đò này là anh Sơn (người Tứ Liên – Tây Hồ) cho biết: Tôi mới đưa đò lại được mấy ngày, bây giờ nước còn nhỏ, nông nên chỉ mất khoảng một phút qua sông. Nhiều người việc gấp, không chờ được đò vẫn còn có thể lội từ bên này sang bên kia sông được mà. Nhưng mùa nước lên thì… mênh mông!”. Anh Sơn đã làm nghề chở đò ngang này không biết bao nhiêu năm trước đây là đò mái chèo, khi công nghệ phát triển anh chuyển sang đò máy vừa là kiếm thêm đồng rau đồng mắm cho gia đình vừa giúp bà con dân bãi mỗi khi nước dềnh, nước nổi. Chắc cái anh lái đò này cũng sẽ chẳng để lại cho tôi nhiều ấn tượng nếu không có những câu chuyện của người dân đất bãi. Bà con kể rằng, do là đất bãi, sự quản lý của chính quyền còn nhiều hạn chế, kẻ xấu thường lợi dụng sơ hở của bà con nên nạn trộm cắp xảy ra thường xuyên. Cám cảnh trước những người đã thuộc dạng “cùng đinh” phải lang bạt về đây dựng lều kiếm sống mà còn bị kẻ gian lấy mất thành quả lao động chân chính, anh lái đò này mỗi khi thấy người lạ thường xét nét rất kỹ trước khi chở đò. Có nhiều chuyến kẻ gian muốn sang sông nhưng anh không chở, nghe đâu còn có cả những vụ xô xát giữa lái đò và khách chỉ vì cái nghĩa khí với dân nghèo đó!(?)
Thiên nhiên quả là rộng lượng, bãi bồi giữa sông là vùng đất mỗi năm lại bồi thêm một lượng lớn phù sa màu mỡ như một sự niệm tình của đấng tối thượng nào đó sắp xếp để an ủi những số người phiêu bạt. Người dân ở đây (đa số là từ tỉnh Hưng Yên lên làm ăn) chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Trên bản đồ bãi giữa đã rất rộng, thâm nhập vào nó bằng chân đất thì càng cảm nhận rõ nét sự mênh mông, rộng lớn của nó. Đất ở bãi này chủ yếu là của người dân của phường Tứ Liên nhưng sự đô thị hóa khiến nhiều người không thiết tha với những công việc suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà thu nhập thì thấp nên đã đổi nghề. Còn đất thì đã có bà con ở những nơi khác về đây sinh kế thuê để sản xuất… Mùa này ngô trên bãi đang độ trổ bông, những con đường dẫn vào trong bãi hút dài tưởng chừng như sâu vô tận, phía cuối của nó là một màu xanh mát mắt.
Không khó để có thể nhận ra những ngôi lều dựng tạm bằng lá cọ, cột tre, vách làm bằng các loại vật liệu mà bà con thu lượm được trên sông… lúp xúp bên tán nào chuối nào ngô. Ở đây người ta không gọi đó là ngôi nhà mà chỉ gọi là lều, sự bấp bênh của sông nước, của số phận và cả ở sự định đoạt số phận trong tương lai cũng chưa rõ ràng nên ở đây chẳng ai dám cất nhà. Cũng có một lý do nữa là để đảm bảo an toàn hành lang giao thông đường thủy vào mùa nước nên chính quyền sở tại cũng không cho phép xây dựng nhà kiên cố. Hàng năm cứ đến mùa nước chính quyền phường lại yêu cầu những hộ dân ở đây thu dọn nhà cửa, hoa màu, di dời khỏi bãi tránh những thiệt hại đáng tiếc khi “nước tải mã” - đỉnh lũ về.
 |
|
Ngây thơ đất bãi |
Người đất bãi cũng hồn hậu, phóng khoáng như chính mảnh đất này đối đãi với họ vậy. Chúng tôi rẽ vào một ngôi lều trên bãi, hình ảnh đầu tiên là hai đứa trẻ đang nghịch đất cạnh bụi chuối, bên cạnh chúng là hai cái vỏ hộp thịt đã hoen rỉ nhặt từ bãi sông, bên trong đựng vài con kiến càng còn một vỏ hộp sữa chua đựng một con sâu lá. Đây là nơi ở của gia đình anh Nguyễn Văn Luân (quê ở tỉnh Hưng Yên). Cha mẹ đi vắng, hai đứa trẻ ở nhà tự tìm đồ chơi từ những thứ có sẵn trên bãi. Thấy người lạ, bé Nguyễn Minh Quân (con anh Luân) tròn mắt nhìn vừa ngạc nhiên vừa tò mò. Chắc lâu lắm chúng mới thấy người lạ vào đất này. Ngỡ ngàng một chút rồi chúng lại tiếp tục chơi với con sâu. Cô bạn đi cùng hét toáng lên khi bé Minh Quân tặng con sâu như một món quà ra mắt. Chúng chẳng hề biết sợ, còn cô bạn tôi mặt cắt không còn hạt máu. Chị Nguyễn Thị Hồng Nhung (mẹ bé Minh Quân) đang làm gần đó vội trở về khi nghe tiếng người lạ. Thoáng dè dặt đề phòng qua nhanh khi chị biết không phải kẻ xấu vào nhà. Trong căn lều lụp xụp, chị Nhung vồn vã mang tất cả “sản vật” của đất này mời chúng tôi: “Đây là ngô nếp ngoài bãi mới lấy đấy, ngọt lắm! Còn đây là dưa leo nhà em trồng đấy, cứ ăn cả vỏ càng ròn không có thuốc trừ sâu đâu. Anh chị ăn khoai lang luộc không? Tí nữa em bẻ ít ngô để anh chị làm quà nhé. Tối nay ở lại đây ăn cơm với vợ chồng em...!”. Rồi chị lại vồn vã rót nước ra cái bát sành mời chúng tôi. Thứ nước từ các loại cây cỏ chị lấy trên bãi nấu làm nước uống thơm thơm mùi thuốc bắc, vị ngọt ngai ngái, uống rồi còn đọng mãi vị ngọt nơi cuống lưỡi.
Nước sinh hoạt ở đây cũng rất khó khăn, bà con đất bãi đâu có nước máy để dùng, chủ yếu dùng nước giếng khoan. Thuê khoan được một cái giếng hết cả triệu đồng nhưng nước lấy lên cũng chẳng khác nước sông là mấy, lại qua mấy công đoạn lọc, tách (bằng cát) mới trong để dùng được nên rất quý. Trong nhà cũng thấy có treo cái bóng điện loại compact mà không hề thấy có đường điện nào kéo vào bãi. “Trước đây chúng tôi dùng đèn dầu, nến để thắp sáng nhưng bây giờ dùng đèn điện rồi, sáng lắm. Điện lưới ấy à? Dùng bình ắc quy thôi, bóng điện phải dùng loại của Trung Quốc sản xuất mới được. Mỗi lần sạc bình ắc quy hết 15.000 đồng/bình, thắp tiết kiệm cũng được nửa tháng, còn nếu dùng nhiều thì chỉ được một tuần thôi. Sạc điện thì chỉ sang… bên kia sông thôi…”. Tôi tò mò nhìn vào góc nhà “nơi ngự trị của Táo công” là mấy cái nồi nhọ nhem đặt bên cạnh đống cây ngô khô làm chất đốt. Trên mái là túi cá khô buộc cẩn thận cạnh mấy túi mắm, muối. Trên cái vách nứa thăng bằng vỏ bao xi măng quần áo lao động vắt bừa… trong nhà chẳng có gì đáng giá đến 50.000 đồng. Trò chuyện thì vồn vã thế nhưng khi chúng tôi muốn chụp kiểu ảnh với chị để “làm kỷ niệm” thì chị vội từ chối vì… xấu hổ lắm!
Trên đường trở ra, chúng tôi gặp nhiều bà con đi làm về, mỗi người một gánh nào lạc, nào dưa, ngô… chuẩn bị sáng sớm hôm sau mang sang chợ Tứ Liên bán. Họ chẳng tiếc gì, “dúi” đầy tay chúng tôi những gì có sẵn, (và không quên câu dặn, đi nhanh kẻo hết đò), còn riêng bé Minh Quân tặng chúng tôi cả một tổ chim sâu với 4 cái trứng vừa mới lấy từ ruộng ngô về.
Bài và ảnh: Khánh Kiên