 |
Chú thích ảnh: Người dân vẫn chưa xoá đói giảm nghèo được từ dự án trồng rừng thí điểm |
Năm 1999 là năm bắt đầu triển khai dự án trồng rừng thí điểm để xoá đói giảm nghèo cho 15.000 hộ dân tại hai huyện Đồng Hỷ và Phú Bình tỉnh Thái nguyên. Tổng số vốn lên tới 40 tỷ đồng và tổng diện tích đất lâm nghiệp là 13.611ha được giao cho Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor) quản lý để triển khai thực hiện. Sau đó, dự án được giao lại cho Công ty Ván Dăm Thái Nguyên trực thuộc Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam để xây dựng vùng nguyên liệu của công ty. Đến nay khi nhiều lô rừng đã bắt đầu bước vào khai thác lại xuất hiện tình trạng nhiều hộ dân không còn mặn mà với việc trồng rừng nữa. Hàng ngàn hộ dân tham gia trồng rừng theo dự án cuộc sống vẫn đang còn nhiều khó khăn…
Người trồng rừng vẫn chưa thoát nghèo
Để tìm hiểu cuộc sống của người dân trồng rừng nằm trong dự án, chúng tôi đã tìm đến xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ. Con đường từ thị trấn Chùa Hang, trung tâm huyện vào xã Văn Hán chưa đầy 15 km, con đường duy nhất hiện nay trên địa bàn huyện Đồng Hỷ chưa được rải nhựa, đường rừng nên đi lại không hề dễ dàng và phải mất gần nửa ngày đường chúng tôi mới vào được trung tâm xã. Xã Văn Hán là xã thuộc diện nghèo nhất thuộc vùng sâu, vùng xa trên địa bàn huyện Đồng Hỷ. Cả xã có 2.176 hộ với gần 10.000 nhân khẩu được chia thành 17 xóm, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 44%. Tỷ lệ hộ đói nghèo hiện nay vẫn còn trên 50%. Tổng diện tích đất tự nhiên của cả xã là 6550 ha, trong đó có 5.000 ha đất rừng. Đây cũng là xã có diện tích đất trồng rừng lớn nhất nằm trong dự án với trên 3.000 ha.
Theo dự án, mỗi hộ dân sẽ được hỗ trợ 5 triệu/1ha cho tiền nhân công trồng, chăm sóc và bảo vệ cho đến khi giao sản phẩm cho công ty Ván Dăm trong chu kỳ 7 năm. Công ty sẽ cung cấp giống, phân bón và hướng dẫn kỹ thuật cho bà con. Yêu cầu phải trồng với mật độ 1660 cây/1 ha. Trồng chỉ chủ yếu là 3 loại cây gồm: keo lai, keo tai tượng và mỡ. Khi khai thác, mỗi ha người nhận khoán phải nộp cho công ty là 50 mét khối gỗ. Phần năng suất thừa ra sẽ chia theo tỷ lệ là người dân được hưởng 70%, công ty 30%. Tuy nhiên trên thực tế, theo phản ánh từ các hộ trồng rừng ở đây, khi triển khai trồng xong, công ty đã tính tiền cây giống là 2.000 đồng/1 cây giống và tính cả tiền phân bón trừ vào số tiền nhân công 5 triệu/ 1 ha đó. Thành thử ra khi trừ toàn bộ chi phí đi, số tiền người dân nhận được chẳng còn lại là bao. Với số tiền đó, trong 7 năm người dân có thể đảm bảo được cuộc sống? Có thể xoá đói giảm nghèo? Bên cạnh đó, số tiền này cũng phải thanh toán thành rất nhiều đợt trong 7 năm, người dân mới được nhận đủ. Nhiều hộ vì chán nản nên không làm tốt một khâu nào đó trong các công đoạn chăm sóc còn không được thanh toán.
Anh Hứa Văn Chiến 40 tuổi thuộc xóm La Củm đã tham gia trồng rừng cho dự án từ năm 2001 với diện tích là 2 ha. Bên căn nhà tềnh toàng, anh Chiến cho biết, từ năm 2001 đến 2007 vừa qua anh cũng mới được nhận hết số tiền đó. Từ năm thứ 4 trở đi, mỗi năm người dân sẽ được nhận thêm hơn 100.000 tiền bảo vệ nữa, nhưng hầu hết chẳng ai được nhận. Cách đây ít hôm thấy người của công ty nói là sẽ khai thác trên khoảnh rừng của anh vì đã đến tuổi khai thác. Nhưng công ty thuê người vào khai thác nên gia đình không thể theo dõi được và cứ vận chuyển đi, anh cũng không biết là mang đi đâu. Đồng thời cũng không báo cho anh biết lô rừng của anh năng suất được bao nhiêu. Đã có rất nhiều hộ, khi khai thác người dân cũng không được biết năng suất. Sau đó thấy công ty báo là hụt năng suất, thế là công ty ghi nợ. Và các hộ lại trồng trả nợ vào đợt tiếp theo. Anh cho biết, khi khai thác xong anh sẽ không tiếp tục trồng cho công ty nữa. Vì cũng như nhiều hộ khác ở đây, nhà anh không có nhiều ruộng chỉ chủ yếu dựa vào 2 ha rừng, trong khi đó nhà có 5 nhân khẩu, với số tiền công ty trả thì gia đình vẫn chưa hết đói.
Cùng với trưởng xóm La Củm, ông Lâm Văn Biên, anh Nông Văn Đồng 34 tuổi dẫn chúng tôi đi xem hơn 3 ha keo lai mà gia đình anh trồng đã được 4 năm tuổi đang xanh tốt mơn mởn. Theo yêu cầu của công ty phải đạt mật độ là 1660 cây/1ha nên khi trồng anh đã trồng với mật độ 1800 cây/1ha cây giống nên bây giờ chắc chắn đảm bảo mật độ mà công ty đề ra. Sau chu kì khai thác, trung bình mỗi cây gỗ sẽ đạt 1 tấc gỗ và công ty sẽ lấy cây có đường kính từ 6cm trở nên. Như vậy 1 ha với mật độ 1600 cây sẽ được 160 mét khối gỗ. Không có lý gì lại hụt năng suất được. Thế nhưng anh thấy hầu hết các hộ trồng ở đây đều thế. Nếu có dư thì khi chia phần trăm xong, công ty sẽ trừ đi nhiều khoản như tiền khai thác, vận chuyển, làm đường… người dân cũng chẳng nhận được gì. 3 ha rừng của anh với mỗi ha là 5 triệu, phải trừ chi phí cây giống và phân bón đi, năm đầu 1 ha chỉ được nhận 2,4 triệu, còn lại 2,6 triệu được chia làm 6 đợt và đến giờ anh vẫn chưa được nhận đủ. Vì đã ký vào hợp đồng với công ty nên anh phải làm hết đợt này, sau đó sẽ không trồng nữa.
Bao giờ có thể thoát nghèo?
Ông Nguyễn Văn Hiền- Chủ tịch UBND xã Văn Hán cho biết, trước đây khi bắt đầu triển khai dự án từ năm 1999, do người dân trong xã đang rất nghèo, nhiều hộ lúc đó đang còn đói nên khi công ty vào làm hợp đồng trồng, các hộ thấy trước mắt có một khoản tiền nên nhiều hộ đã nô nức làm hợp đồng trồng cho công ty Ván Dăm. Tuy nhiên sau 1 vài năm trồng đã thấy rằng đó cũng chỉ như một hình thức thuê công nhân lao động với giá rẻ muốn dừng lại không được vì đã ký vào hợp đồng. Còn về phía chính quyền xã thì không thể can thiệp được vì khi triển khai, công ty xuống làm hợp đồng thẳng với người dân, lấy lý do rằng đây là đất của công ty, chỉ mang hợp đồng giữa người dân với công ty ra cho xã chứng thực. Hiện nay, diện tích người dân còn hợp đồng trồng rừng với công ty Ván Dăm Thái Nguyên đã giảm xuống rất nhiều và đang ngày càng co hẹp lại vì khi so với các hộ không hợp đồng trồng với công ty Ván Dăm mà tự trồng thấy thua thiệt rất nhiều nếu tính giá gỗ ở thời điểm 2006 đã là khoảng 600.000 đồng/ 1 mét khối. Nhiều hộ gia đình sau khi tham gia trồng rừng hết chu kỳ kinh doanh đã không hợp đồng trồng cho công ty nữa mà hầu hết đã chuyển sang tự trồng. Nhiều gia đình đã chuyển sang trồng chè hoặc trồng những loại cây khác cho giá trị thu nhập cao hơn.Những xóm người dân đang còn hợp đồng trồng rừng nguyên liệu cho công ty Ván Dăm Thái Nguyên cũng chính là những xóm đang còn tỷ lệ hộ nghèo cao nhất trong xã như: La Đàn, Cầu Mai, La Đùm. Số hộ hiện đang trồng rừng theo hợp đồng với công ty Ván Dăm là gần 1.000 hộ. Cuộc sống của đa số người dân trồng rừng trong dự án đến nay vẫn chưa cải thiện. Hiện nay, giá trị kinh tế đồi rừng đang lên cao mà số tiền người dân nhận được vẫn chẳng đáng là bao. Điều này cũng ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát triển kinh tế của xã vì công ty nói là đất của công ty, người dân thì lại không trồng nữa nên đất đành bỏ không. Đây là một sự lãng phí rất lớn. Xã đã rất nhiều lần kiến nghị việc này với các cơ quan quản lý cấp trên cả bằng văn bản lẫn qua các kỳ họp HĐND.
Theo tìm hiểu từ UBND huyện Đồng Hỷ thì quan điểm của huyện là hoàn toàn ủng hộ việc xây dựng vùng nguyên liệu cho nhà máy Ván dăm và việc trồng rừng và trả sản phẩm bằng rừng thì người dân sẽ sống được do giá trị sản phẩm rừng hiện nay đã lên cao. Nhưng do hợp đồng giữa công ty và người dân lại ký từ những năm 1999 và do chế tài hợp đồng không chặt chẽ nên đã nảy sinh vấn đề. Hơn 11.000 ha đất lâm nghiệp này trước đây thuộc Lâm trường Đồng Hỷ, sau đó hợp nhất với Lâm trường Phú Bình tạo thành Lâm trường Đồng Phú đóng trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, sau này giao cho công ty Ván Dăm quản lý lại không thuộc diện quản lý của huyện. Là đơn vị quản lý nhà nước, đã nhiều lần huyện đã mạnh dạn có ý kiến trong các cuộc họp. Nhiều lần đề nghị công ty tăng các loại phụ phí cho người dân. Và đã tổ chức các cuộc họp 3 bên gồm có huyện, người dân và công ty. Đồng thời đã có kiến nghị lên cả Bộ NN và PTNT lẫn tỉnh nhưng tình hình vẫn chưa cải thiện được. Vì thế hiện nay, huyện cũng đang rất lúng túng. Năm 2004, Chủ tịch tỉnh đã chủ trì hội nghị phân định rạch ròi ranh giới đất. Đến tận năm 2006 vẫn chưa làm được do yếu tố lịch sử để lại. Nên quan điểm là giữ nguyên hiện trạng để dân phát triển lâm nghiệp.
Ông Dương Văn Lành, Chủ tịch UBND huyện Đồng Hỷ cho biết, đã hết 1 chu kỳ gần 2 năm nay mà công ty vẫn không đổi mới, không đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nâng cao khao học kỹ thuật trong lâm nghiệp và không hề trích phúc lợi cho địa phương để đảm bảo dân sinh. Huyện cũng đề nghị các cơ quan, ban ngành chức năng cần sớm phân định và quy hoạch lại đất cho công ty. Tại những khu vực nào không hiệu quả thì nên ưu tiên chuyển đổi vì hiện nay đang có rất nhiều giống cây mang lại hiệu quả kinh tế rất cao như cây chè. Những diện tích còn lại phải xây dựng quy chế, xây dựng chương trình dài hạn để người dân có cơ hội phát triển trên đất lâm nghiệp mà doanh nghiệp vẫn bảo toàn được vốn và địa phương sẽ đứng lên chịu trách nhiệm. Có như thế mới có thể xoá được đói giảm được nghèo cho người dân miền núi.
Bài, ảnh: Xuân Đức - Phan Hoạt