QĐND Online - Đứng trên đầu bản Nậm Hản (xã Mường Tè – Mường Tè, Lai Châu), trưởng bản Lò Văn Chăn chỉ cánh rừng trước mặt bức xúc: “Trước kia đây là ruộng của bản chúng tôi đấy. Bây giờ chuẩn bị khai thác gỗ được rồi!”. Khi mới được vỡ đất khai hoang, chỗ này chính là niềm kỳ vọng của cả bản, là sự mong chờ của những hộ nghèo trong bản, là ước mơ bao đời của người dân trong bản, cả xã phấn khởi. Nay thì đâu lại vào đó…

Ruộng thành rừng!

Hiện trạng công trình thủy lợi Nậm Hản

Mường Tè là một xã có nền kinh tế rất phát triển của huyện, từ năm 1996 đến này người dân đã không còn phá rừng làm nương nữa. Tập quán du canh, trồng lúa nương đã được thay đổi. Trước đây cũng với 243 ha ruộng lúa nước, người dân vẫn phải tần tảo phát nương làm rẫy mà cuộc sống vẫn không đủ ăn. Nay diện tích ruộng nước vẫn vậy, nhưng nhờ tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, hệ thống kênh mương được tu sửa, chủ động tưới tiêu nên bà con nhân dân đã sản xuất được hai vụ. Lương thực bình quân đầu người năm 2007 đã là 580kg/ người/năm. Ông Lý Văn Thốc – Phó chủ tịch UBND xã phấn khởi: “Những năm gần đây, xã Mường Tè luôn là điểm cung cấp lương thực, thực phẩm cho các xã biên giới của huyện khu vực thượng nguồn sông Đà. Xã cũng là “vựa thóc” cho các đồn biên phòng: Ka Lăng, Thu Lũm, Mù Cả, Pa ủ và xuất bán hàng chục tấn lương thực, góp phần giảm áp lực về lương thực cho thị trấn huyện. Nhưng điều chúng tôi băn khoăn là công trình thủy lợi tại bản Nậm hẳn đã bị lũ cuốn mất nên hơn 30ha lúa nước bị ảnh hưởng, riêng 4,5ha ruộng mới khai hoang của bản Nậm Hản đã không thể canh tác được…”.

Chẳng ngại mưa gió, trưởng bản Lò Văn Chăn tình nguyện dẫn chúng tôi đi dọc con mương mong chờ của người dân để: “Nhà báo xem rồi phản ánh với cấp trên đầu tư xây dựng lại công trình cho bà con chúng tôi!”. Đi qua cánh rừng đầu bản, ông bần thần dừng lại: “Lần nào qua đây tôi cũng đứng nhìn nó, hàng trăm công lao động của bà con ròng rã mấy tháng trời, ruộng đã thành bờ, mạ đã được gieo, nhiều hộ thuận mưa đã cấy lúa xuống rồi đấy. Bây giờ thì chỉ để lũ trẻ con thả trâu, lấy củi. Ruộng của chúng tôi nay đã thành rừng rồi…”.

Tháng 3-2006, sau nhiều tháng thi công, công trình thủy lợi tại bản Nậm Hản đã được cắt băng khánh thành trong sự hân hoan của nhà thầu, sự mong chờ của chính quền xã và nhất là niềm vui không tả của bà con trong bản. Theo thiết kế, công trình này sẽ trực tiếp phục vụ nước tưới tiêu cho 17ha lúa của 2 bản Nậm Hản và Nà Đon, cùng hàng chục ha ruộng khác cũng được hưởng lợi gián tiếp từ công trình này. Ông Lò Văn Pằn – người dân trong bản than trách: “Công trình này chủ yếu phục vụ nước vào mùa khô cho nhân dân có thể sản xuất 2 vụ, đằng này vừa đưa vào sử dụng, nhưng chưa đến mùa khô đã bị hỏng!”. Sau 3 tháng sử dụng, đến giữa tháng 7-2007 thiên nhiên như muốn thử độ bền công trình, trời mưa từ đêm đến sáng, lũ lớn kéo về cuốn sạch những gì nó cho là vướng. Riêng bản Nậm Hản đã phải nạp cho thủy thần 54 máy phát điện, 17ha ruộng, 1 cây cầu, 2 con trâu và quan trọng nhất là công trình thủy lợi mong chờ của người dân.

Cầu Hin Ban bây giờ

Đi được hơn 1km, đường phải qua một cây cầu treo còn nguy hiểm hơn cầu khỉ. Hai dây cáp to được đặt bùng biêng trên bốn thanh thép, treo toòng teng những cây que được néo với nhau bằng thân cây nứa trẻ dập, đi qua đó phải từng người một, người này sang tới bờ người khác mới được xuất phát. Đứng giữa cầu nhìn xuống dòng Nậm Hản cuồn cuộn lũ, và cây cầu đung đưa, bùng biêng khiến người lạc quan cũng phải tái mặt. Ông Chăn giải thích: “Đây là cầu Hin Ban, nó có từ trước khi có công trình này, khi xây dựng công trình, nhà thầu cho xây dựng kiên cố hơn có trụ, rầm, cáp treo nhưng sau trận lũ đó (tháng 7/2006) cả hệ thống ống dẫn nước của công trình lẫn cây cầu đều bị lũ cuốn trôi. Để tiện cho bà con đi lại, sản xuất nên tôi huy động nhân dân dựng tạm cây cầu này vừa để đi cũng là để bảo vệ tài sản của nhà nước, mong ngày nào đó sẽ có dự án sửa lại công trình”. Cách cây cầu khoảng 50mm, là những dấu tích của công trình. Những thanh dầm, trụ cầu bằng thép và ngổn ngang những ống thép xiphông (ống dẫn nước loại phi khoảng 250mm-300mm) nằm dọc suối. Đã nhiều lần người dân trong bản định xử lý, nối lại đường ống nhưng không thành công.

Xót xa nhìn con đập bị dòng suối phá bung, những đầu dây thép trơ lên trời như câu hỏi tại sao nó chưa được dùng đã hỏng. Anh Phạm Anh Tuấn-Trưởng phòng Công thương huyện cho biết: Công trình này do Doanh nghiệp xây dựng số 10 Điện Biên thi công, đơn vị thiết kế là Công ty tư vấn, khảo sát thiết kế thủy lợi Điện Biên. Theo nguyên tắc, phần đập chịu lực, ngăn nước vào mương phải được đổ bê tông cốt thép chịu lực. Nhưng tận mắt chứng kiến mới thấy sự tác trách của các đơn vị liên quan tại đây. Đập nước không hề được đổ bê tông mà chỉ dùng đá xây lại, bên trong có lồng khung thép do đó công trình mới dùng được 3 tháng đã bị phá hỏng và đám ruộng đã được khai hoang giờ lại hoang hóa! Không những không đem lại hiệu quả mà 49ha ruộng của bản cũng bị ảnh hưởng nên nhiều đoạn, kênh mương kiên cố người dân phải đục ra lấy nước cày cấy.

Dân mong có một công trình

Ông Lò Văn Săn cán bộ xã Mường Tè mong mỏi: “Lương thực bình quân của xã có thể được nâng lên, nông nghiệp của xã có thể phát triển hơn nếu công trình này phát huy hiệu quả. Nhà nước đã đầu tư 4,3 tỷ đồng tiền nhưng bản Nậm Hản người dân vẫn phải chờ nước trời”.

Trên đường đi lên công trình, chúng tôi gặp rất nhiều người dân đi cấy, biết có phóng viên mọi người đều dặn dò: “Nhà báo phải làm sao để chúng tôi đỡ vất vả nhé. Lãnh đạo tỉnh, huyện đã về xem xét tình hình nhưng rồi họ lại bỏ đi mà chẳng có chủ trương gì cả. Nhiều năm nay chúng tôi chờ công trình này. Nay có rồi lại mong Nhà nước có kế hoạch sửa chữa để chúng tôi tiếp tục sản xuất, không cần phá rừng làm nương nữa”.

Quanh bản Nậm Hản chỉ có rất ít ruộng, ruộng của bản tập trung nơi đầu nguồn dòng suối. Từ bản tới đó xa hơn 2km, người đi nhanh cũng phải 20 phút mới tới nơi. Đầu bản có khoảnh đất bằng, khi nhà nước tiến hành xây dựng công trình thủy lợi bản đã tập trung nhân lực vỡ đất ở đó để làm ruộng cấp cho các hộ nghèo, gia đình chính sách của bản. Mong muốn tốt đẹp ấy đã không thành hiện thực vì hệ thống kênh mương đã chết yểu khi vừa mới khai sinh.

Trưởng bản Lò Văn Chăn ưu tư: “Bà con dân bản không phải là lười biếng, trông chờ vào sự trợ cấp của nhà nước nhưng việc tu sửa công trình vượt quá khả năng của chúng tôi. Rất mong các cấp có thẩm quyền lưu tâm để lúa của Nậm Hản xan cả 2 vụ, để người nghèo, gia đình chính sách có thêm nhiều thửa ruộng, để cả xã Mường Tè mỗi khi nhắc tới sản xuất nông nghiệp không còn coi Nậm Hản là bản khó khăn, chậm phát triển nữa. Người dân bản tôi sẽ giàu hơn nếu công trình này phát huy tác dụng”.

Chúng tôi rời Nậm Hản (dòng suối thọt chân) trong sự kỳ vọng của bà con dân bản rằng sẽ đưa tiếng nói của đồng bào đến các cấp có thẩm quyền nhưng theo một số nguồn tin thì công trình này sẽ chưa được khôi phục vì nó tiêu tốn nhiều tiền, trong khi hiệu quả kinh tế đem lại chưa cao do diện tích phục vụ không lớn. Câu hỏi đặt ra liệu các cơ quan chức năng có “đem con bỏ chợ?”. Cùng diện tích đấy trước đây đã được phê duyệt đầu tư mà nay lại có ý kiến cho rằng thiếu diện tích phục vụ? Câu trả lời xin nhường cho cấp có thẩm quyền nhưng xin hãy nhớ, tiền của nhân dân cần phục vụ mục nhân dân. Dân Nậm Hản đang rất mong có một công trình thủy lợi.

Bài, ảnh: Khánh Kiên