 |
Sau ngày cưới, các đôi vợ chồng công nhân phải đối mặt với trăm thứ lo toan (ảnh chụp tại nhà hàng Trường Sơn, thành phố Biên Hòa) |
QĐND Online - Càng gần Tết, những đám cưới của các đôi uyên ương công nhân càng dày đặc. Trong lúc cuộc sống đang bộn bề khó khăn, hàng ngàn, hàng vạn đôi lứa trong các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) đã và đang bước vào cuộc mưu cầu hạnh phúc đầy bất trắc và gian khó...
Từ nhà hàng, tiệc cưới
Tôi đi dự đám cưới một đứa cháu cùng quê, là công nhân ở KCN Biên Hòa 2 tại nhà hàng VT, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Vốn quen với không khí đám cưới tại các nhà hàng sang trọng ở thành phố nên khi đến đây tôi không khỏi chạnh lòng. Trong một không gian rộng như hội trường, chủ nhà hàng chỉ sử dụng các bức vách ngăn bằng tôn cao hơn 1 mét để “phân chia địa giới” cho các đám cưới. Khi vào cuộc, các MC đồng thanh “ca”. Chị chủ nhà hàng cho biết: Cũng có khi chỉ sử dụng một MC, “A lô” đám này xong thì quay sang “Kính thưa...” đám bên cạnh. Tuy thế, các đôi uyên ương cũng chẳng kêu ca phàn nàn gì vì rằng “tiền nào của đó”. Đời sống công nhân khó khăn nên hệ thống nhà hàng, dịch vụ đám cưới cho công nhân cũng hết sức bình dân. Chỉ cần một khu đất hay căn nhà đủ rộng để đặt khoảng 30 bàn ăn là người ta có thể mở nhà hàng tiệc cưới. Mức giá của các nhà hàng đám cưới công nhân cũng rất... công nhân. Một bàn cho 10 khách dao động từ 700.000 - 800.000 đồng. Thậm chí có những trường hợp “hoàn cảnh quá”, nhà hàng sẵn sàng làm tiệc chỉ với mức giá 600.000 đồng/bàn. Với đồng lương quá khiêm tốn, lại trong cơn “bão giá”, đời sống đắt đỏ, việc bỏ ra 100.000 đồng đi dự đám cưới của công nhân đã là cả một vấn đề lớn, nên các đôi uyên ương chỉ dám đặt tiệc ở mức giá đó. Vào mùa này, công nhân thường phải “chạy sô” đám cưới, vì có khi nhận được cùng lúc 5-6 cái thiệp hồng. Cho nên trường hợp ế cỗ cưới không phải là hiếm. Trong trường hợp này, cô dâu chú rể chỉ còn nước... cười ra nước mắt, tuần trăng mật biến thành “vỡ mật” vì phải lo trả nợ và khất nợ. Đám cưới giản đơn nên những dịch vụ đi kèm cũng... tối giản. Chỉ cần ăn nói trôi chảy một chút, soạn sẵn một “kịch bản” rồi học thuộc lòng (thậm chí chẳng cần thuộc mà mở giấy ra đọc cũng được) là có thể đi làm MC đám cưới. Ông Nguyễn Minh Nguyệt, chủ nhà hàng Trường Sơn (Biên Hòa) cho hay: Thù lao cho MC của nhà hàng Trường Sơn là 120.000 đồng/đám cưới, thuộc hàng cao nhất trong các nhà hàng tiệc cưới công nhân. Các nhà hàng khác chỉ trả mức 100.000 đồng. Nếu đám cưới nào đặt từ 10 bàn trở lên thì các nhà hàng “khuyến mãi”, thuê người đến chơi đàn oóc- gan phục vụ văn nghệ. Dĩ nhiên các “nhạc công” này cũng thuộc hạng “a-ma-tơ”, nhạc một đằng, hát một nẻo nhưng không sao, vui là chính, và quan trọng hơn là tiền thù lao cho họ cũng rất rẻ, chỉ nhỉnh hơn người làm MC chút đỉnh. Các thủ tục như đám hỏi, lễ gia tiên… cũng được thực hiện một cách giản đơn nhất ở ngay tại phòng trọ. Không có bàn thờ thì chồng hai cái bàn nhỏ lên, phủ tấm vải mưa nữa là xong. Như đám cưới của vợ chồng đứa cháu cùng quê với tôi, gia đình hai bên vào cũng ở ngay tại phòng trọ của con. Chỉ trước ngày cưới, sui gia mới biết mặt nhau, và con dâu, con rể mới biết mặt bố mẹ của chồng (vợ) mình. Khi tiệc cưới tàn thì gia đình hai bên cũng lo về quê luôn, vì ở lại cũng chẳng có chỗ mà ngả lưng.
Ở KCN Sóng Thần, khu chế xuất Linh Trung (Bình Dương), những khu “phố cưới” nằm dọc tuyến đường 550, nhà hàng dịch vụ đám cưới nhiều như nấm sau mưa. Quốc lộ 1A từ ngã tư Tam Hiệp đến khu chợt Sặt và đường Bùi Văn Hòa nối từ nội ô thành phố Biên Hòa đến Cổng 11... được mệnh danh là những “cung đường tiệc cưới” của công nhân ở các KCN Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, A-ma-ta...
Đến tổ ấm gia đình
 |
Vợ chồng Hà Thị Cúc sau ngày cưới |
Trò chuyện với các bạn trẻ công nhân, chúng tôi được biết, tỷ lệ các đôi uyên ương không đăng ký kết hôn trước ngày cưới là khá phổ biến, phần vì do thời gian làm việc căng thẳng, phần vì suy nghĩ đơn giản, thiếu hiểu biết pháp luật và các kỹ năng trong cuộc sống. Lợi dụng thực tế này, không ít cô gái rơi vào vòng tay của những gã họ “Sở”. Vợ chồng chị Nguyễn Thị Phương, thuê nhà trọ ở tổ 20, đường Bùi Văn Hòa, khu phố 3, phường Long Bình Tân (Biên Hòa) kể: Vợ chồng chị lấy nhau gần 10 năm mà không có con. Trong một lần đi bệnh viện, chị bắt gặp một cô gái đang ngồi khóc ủ rũ trên ghế đá. Chị gặng hỏi thì được biết, cô gái quê ở Nghệ An, làm công nhân ở KCN Biên Hòa 2. Cô yêu một anh chàng, gần đến ngày cưới (dĩ nhiên là không đăng ký kết hôn) thì gã họ “Sở” cao chạy xa bay. Cô đến bệnh viện để “giải quyết hậu quả” nhưng thai nhi đã quá lớn. Chị Phương đưa cô gái về phòng trọ chăm sóc. Sinh nở mẹ tròn con vuông xong, cô gái ôm con vào lòng cho bú lần cuối rồi nước mắt giàn dụa từ biệt vợ chồng chị Phương lên đường về quê. Cũng không ít trường hợp sau đám cưới thì hai vợ chồng đường ai nấy đi vì: “Chẳng có ràng buộc gì hết, thích thì ở, không thích thì... thôi. Tài sản thì... chẳng có gì để mà phân chia”. Nhiều đám cưới không có họ hàng hai bên. Cô dâu chú rể nhờ người quen, có khi nhờ luôn nhà hàng “sắm vai” phụ huynh, thế là xong.
Một căn phòng trọ rộng chừng 15-16 m2 là tổ ấm của các đôi uyên ương sau ngày cưới. Tuy nhiên, việc tìm thuê phòng trọ đối với họ là cả một vấn đề nan giải. Hà Thị Cúc, công nhân Xí nghiệp gỗ – KCN Biên Hòa 2 sau khi cưới không thuê được nhà đã được bạn bè nhường lại cho căn phòng trọ. “Mấy đứa bạn bảo tụi em dành thời gian cho tuần trăng mật, nhưng cưới nhau rồi thì phải lo trở lại công ty làm việc càng sớm càng tốt, còn tâm sức đâu mà mật với chả đường”, Cúc nói. Ngoài chiếc nồi cơm điện, vợ chồng Cúc chẳng sắm sửa gì thêm. Càng giản đơn càng tốt. Tiết kiệm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, để rồi còn lo cho em bé sau này.
Một căn phòng trọ bình thường có giá cho thuê từ 400.000 đến 450.000 đồng/tháng (chưa tính tiền điện, nước). Với mức thu nhập của cả 2 vợ chồng công nhân vào khoảng 2,5 triệu đồng/tháng, việc đảm bảo cuộc sống là rất khó khăn, nhất là sau khi sinh con. Chị Nguyễn Thị Loan, thuê nhà trọ ở tổ 3 khu phố 7, phường Long Bình (Biên Hòa) cho biết: Vợ chồng chị sinh con được gần 1 tuổi thì phải gửi về quê nhờ ông bà nuôi. Định Tết Kỷ Sửu này về thăm con nhưng không có tiền. “Tụi em tiết kiệm được gần 5 triệu. Tháng 10 vừa rồi em bị ốm nằm viện hơn 3 tuần, tốn hết hơn 3 triệu. Giờ chỉ còn một ít gửi về cho con”, chị Phương thở dài. Phần lớn các các cặp vợ chồng trẻ sau khi sinh con đều phải gửi con về quê. Thế nên công nhân có câu ca “Bố mẹ vào ca con ra quê ở”.
Nỗi niềm làng công nhân
Tại vùng ven thành phố Biên Hòa đã hình thành những khu làng công nhân. Đó là những cặp vợ chồng có điều kiện mua đất, làm nhà. Phường Trảng Dài và xã Phước Tân là nơi tập trung nhiều làng công nhân nhất. Phần lớn những khu đất để lập làng, trước đây là đồng ruộng, được các “đại gia” mua lại rồi hợp thức hóa thành đất ở, phân lô, bán nền. Sau khi mua đất, họ dựng lên những căn nhà cấp 4 đơn sơ, không theo một qui trình nào. Ai có khả năng thì làm nhà khá hơn, ai chưa có khả năng thì thậm chí chỉ dựng mấy cột cây tràm rồi lợp lá dừa là xong. “Dù sao cũng còn hơn phải ở trọ, vừa tốn tiền, vừa chật chội”, chị Nguyễn Thị Phương nhìn căn nhà vừa dựng xong, cười nói xởi lởi.
Người của làng đến từ khắp các vùng quê. Bên cạnh sự khó khăn về đời sống vật chất là nỗi lo về sự phai nhạt các giá trị văn hóa truyền thống. Chị Nguyễn Hoài Thanh, công nhân Công ty Powchel tâm sự:
- Con gái của em đang học lớp 1. Cháu nói thứ ngôn ngữ dở Bắc, dở Nam, pha lẫn cả tiếng miền Trung. Ở cùng một làng nhưng trẻ em không đứa nào nói giống đứa nào. Hồi ở nhà em hay tham gia văn nghệ, hát ví dặm. Từ khi đi làm công nhân, rồi lấy chồng, chẳng biết hát hò là gì nữa.
Chị Thanh nói, mắt đượm buồn. Dường như nỗi trăn trở của chị cũng là tâm trạng chung của các gia đình công nhân trẻ. Nền nếp, gia phong, những phong tục tập quán địa phương khó mà giữ gìn được trong bối cảnh trăm quê về một mối và cuộc sống đang xoay vần với ngàn thứ phải lo toan đến chóng mặt...
Bài và ảnh: THANH KIM TÙNG