QĐND - Tuyến đường tuần tra biên giới thi công tính đến nay đã được 10 năm. Trong khoảng thời gian ấy, đã có hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ, công nhân của các đơn vị, doanh nghiệp quân đội ngày đêm lặn lội trên tuyến đường. Sau khi hoàn thành, đây sẽ là một tuyến đường chiến lược phục vụ quốc phòng, an ninh, đồng thời cũng là tuyến đường góp phần đem lại ấm no, hạnh phúc cho đồng bào đang sinh sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh nhất của đất nước.
Miệt mài cho tiến độ
Thiếu tướng Nguyễn Xuân Tùng, Giám đốc Ban quản lý Dự án 47, chỉ cho chúng tôi những nét vẽ ngoằn ngoèo xanh, đỏ đứt quãng trên tấm bản đồ địa hình Việt Nam tại phòng làm việc của anh, giải thích: "Những đoạn màu đỏ biểu thị cho đoạn Đường tuần tra biên giới chúng ta đã làm xong, có thể đi được. Những đoạn màu xanh là đoạn đang làm, hoặc mới xác định tuyến". Cộng tất cả chiều dài các đoạn màu đỏ đứt quãng ấy lại cũng chỉ hơn chục xăng-ti-mét, chiếm khoảng 20% chiều dài đường biên giới thể hiện trên tấm bản đồ tỷ lệ 1:1.000.000. Đây là một công trình có ý nghĩa chiến lược, tốn công sức, tiền của và thời gian nhưng không thể không làm. Vì đó là con đường phên giậu quốc gia bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới; đồng thời cũng là con đường đưa văn minh, văn hóa đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa... kéo gần giữa miền xuôi với miền ngược.
 |
Thi công tuyến Đường tuần tra biên giới trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. |
Kể từ ngày triển khai dự án đến nay đã chẵn 10 năm. Đối với một dự án làm đường bình thường, thời gian ấy là dài, nhưng với Đường tuần tra biên giới thì nó lại chẳng thấm tháp gì. Nếu làm một cây số đường bê tông nông thôn ở đồng bằng có thể chỉ mất khoảng một tháng. Nhưng cũng đoạn đường như thế ở trên độ cao cả nghìn mét thì chỉ riêng việc mở đường, xoi tuyến cũng đã mất cả tháng trời. Đấy là chưa kể có những đoạn muốn thi công được phải gùi từng bao xi măng, từng ba lô sỏi, cát, từng can nước lên tuyến, rồi thời tiết, mưa, nắng, gió rét khắc nghiệt thất thường. Chính vì vậy, các đơn vị từ thiết kế đến thi công trên tuyến đường luôn tận dụng mọi điều kiện thời tiết, tranh thủ thời gian, phát huy nhiều sáng kiến đẩy nhanh tiến độ... Hết giai đoạn 1 (tính đến năm 2015), các đơn vị đã thi công được 1.920km đường trên tổng số 10.196km theo quy hoạch. Ban quản lý Dự án 47 vừa hoàn thiện tờ trình xây dựng Đường tuần tra biên giới giai đoạn 2 và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Như vậy là từ nay đến năm 2020, chúng ta sẽ có thêm 1.500km Đường tuần tra biên giới được hoàn thiện...
Chúng tôi chợt nghĩ, ai đã từng lên các xã Nà Hỳ, A Pa Chải thuộc huyện Mường Nhé, xã Dào San thuộc huyện Phong Thổ, tỉnh Điện Biên... thì sẽ hiểu quân dân nơi đây mong có được con đường như thế nào. Chúng tôi đi từ trung tâm huyện Mường Nhé vào các xã trên bằng chiếc U-oát 2 cầu với bác tài giàu kinh nghiệm mà cũng phải đánh vật mất cả ngày đường, người đau ê ẩm... Đại tá Nguyễn Đức Mạnh, Phó chủ nhiệm Hậu cần (Cục Hậu cần, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng), vốn là một cán bộ biên phòng thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, nói với chúng tôi: “Tuyến biên phòng của tỉnh Điện Biên là tuyến cực kỳ khó khăn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là đường, trường, trạm... Trong đó, khó khăn nhất có lẽ là giao thông. Chính vì thế, khi dự án về Đường tuần tra biên giới được thực hiện trên địa bàn tỉnh Điện Biên, cán bộ, chiến sĩ biên phòng và bà con các bản giáp biên mừng lắm. Họ mong mỏi từng ngày con đường thành hình và có thể đi lại được trên đó. Giờ đây, con đường tuy chưa thông tuyến hoàn toàn, nhưng được đoạn nào cũng là tốt đoạn ấy rồi...”.
Chuyện nơi "nóc nhà" của dãy Trường Sơn
Đường tuần tra biên giới dẫn lên đỉnh Phu-xai-lai-leng uốn lượn quanh co, vòng vèo như lên cổng trời. Nhìn từ cao xuống, nhiều đoạn đường trông như tấm lụa ai đó vừa ghim vào sườn núi. Phân đoạn trên tuyến thuộc gói thầu số 1 qua cột mốc L10-M11 (Kỳ Sơn, Nghệ An), có chiều dài 18,5km. Đây là đoạn đường do Binh đoàn 12 thi công, là một điểm khắc nghiệt bậc nhất về thời tiết, điều kiện thi công, thực sự là một thử thách đối với bản lĩnh của những người lính mở đường. Sở dĩ chúng tôi đánh giá thế là vì, với độ cao gần 2.800m, đỉnh Phu-xai-lai-leng được coi là nóc nhà của dãy Trường Sơn, nó cũng là đỉnh cao thứ ba ở Việt Nam sau Phan-xi-păng và Phu-ta-leng. Ở đây, quanh năm mây mù che phủ, thời tiết về đêm lạnh giá, ngay cả khi giữa hè, thế nên điều kiện thi công vô cùng khó khăn bởi địa hình hiểm trở. Toàn bộ đỉnh Phu-xai-lai-leng là núi đá dựng đứng, ngước lên là dốc cao, nhìn xuống là vực thẳm. Đại tá Phan Tiến Long, Trưởng ban Quản lý dự án của Binh đoàn 12, nói với chúng tôi: “Để mở tuyến đường này, cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn 12 phải leo lên đỉnh núi, buộc dây vào người, rồi sau đó thả người xuống lưng chừng núi để khoan nhồi mìn, phá đá. Cả tháng trời đơn vị mới tạo được vài trăm mét nền đường. Những khó khăn tuy có gây trở ngại cho đơn vị, nhưng chúng tôi cứ nghĩ đến thời cha anh mở Đường Trường Sơn thì lại thấy khó khăn của mình chẳng thấm tháp gì...”.
 |
Một đoạn đường đã hoàn thành trên địa bàn Tây Bắc. |
Nghe anh Long nói vậy, nhưng khi chứng kiến cuộc sống của anh em đang thi công trên tuyến thì ai cũng xúc động. Do công trường ở trên đỉnh núi, xa chợ, xa dân, nên phải đến một, hai tuần anh em mới cử người ra chợ một lần để mua thực phẩm dự trữ. Có thực phẩm rồi nhưng chuyện nấu nướng cũng không dễ. Bởi ở độ cao hàng nghìn mét, không khí loãng, độ ẩm cao, nước lúc nào cũng chỉ sôi ở khoảng 90 độ C. Nhiều khi anh em phải mang nồi ra giữa trời nắng để nấu cơm. Củi chất đầy dưới đáy, lửa cháy ngùn ngụt mà chờ cả tiếng đồng hồ cơm vẫn không chín, mặc dù ở dưới đáy nồi đã khê cháy. Một cái khó nữa của anh em là việc bảo đảm nước sinh hoạt. Địa điểm thi công xa mỏ nước nên phải gùi từng gùi nước ngọt lên công trường. Mọi người sử dụng phải dè dặt và tận dụng tối đa tác dụng của nước, nghĩa là đánh răng, rửa mặt, tắm giặt xong thì phải sử dụng nước đó để tưới rau… Trên đỉnh núi cũng không có sóng điện thoại. Sách, báo thì phải đưa lên từng đợt, vì vậy anh em thường phải thưởng thức “thời sự nguội”. Trong điều kiện như thế nhưng những người chiến sĩ vẫn kiên nhẫn vượt qua, kiên nhẫn làm từng mét đường vì sự bình yên của Tổ quốc, vì một tương lai tươi sáng của đồng bào các dân tộc trên tuyến biên giới.
Lốp xe "mặc áo giáp''
Rời đỉnh Phu-xai-lai-leng, chúng tôi đến cung đường thuộc gói thầu đường vào Đồn Biên phòng 669 Đăk Nhoong (Đăk Glei, Kon Tum) do Công ty Cổ phần 36.55 (Tổng công ty 36, Bộ Quốc phòng) và các đơn vị của Binh đoàn 11 thi công. Để vào được tuyến đường này, chúng tôi phải cưỡi chiếc U-oát với 4 chiếc lốp đã được chằng buộc xích sắt chắc chắn. Anh lái xe giải thích với chúng tôi: Phải “bọc giáp” cho lốp xe thì mới có thể đi được. Bởi trên tuyến có nhiều đoạn một bên là dốc cao, một bên là vực sâu mà mặt đường lại trơn nhẫy như bôi mỡ. Nhìn những chiếc lốp xe bọc xích sắt, tôi nhớ ra là mình đã gặp hình ảnh này ở Bảo tàng Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh khi thăm bảo tàng năm 2009. Khi ấy, chúng tôi đi lấy tư liệu để viết bài nhân kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn và được chị hướng dẫn viên của bảo tàng phân tích khá sâu về sự tích của những chiếc lốp xe “bọc giáp”. Hôm nay, nhìn những chiếc lốp xe bọc xích này, chúng tôi cứ ngỡ như gặp lại hình ảnh của Bộ đội Trường Sơn năm xưa. Vượt qua khá nhiều con dốc cả dọc, ngang, có đoạn dốc đến 30-40 độ mới có thể vào tuyến thi công, Trung tá Nguyễn Hồng Tuấn, Giám đốc Công ty Cổ phần 36.55 nói với chúng tôi: "Nếu đi vào những tuyến đang mở mới, gặp phải trời mưa, thì đó thực sự là một thử thách. Lúc ấy lội bộ cũng khó chứ nói gì đến chuyện di chuyển máy móc phục vụ thi công. Chẳng thế mà cứ sau mỗi trận mưa, anh em lại phải nghỉ vài ngày chờ đường đỡ ướt mới có thể triển khai máy móc làm đường. Để đỡ tốn thời gian chờ đợi, anh em ở Công ty Cổ phần 36.55 đã áp dụng sáng kiến của Bộ đội Trường Sơn năm xưa, đó là bọc xích sắt vào lốp của các loại phương tiện. Thế là kể cả trời mưa, phương tiện vẫn di chuyển được như thường, nhờ đó mà đơn vị luôn bảo đảm tiến độ thi công. Kinh nghiệm này đã được phổ biến rộng rãi tới các đơn vị thi công trên tuyến, giúp cho công việc của các đơn vị luôn thông suốt...".
Sự kỳ vĩ của Đường tuần tra biên giới rồi sẽ hiện ra trước mắt đồng bào, chiến sĩ. Để cho con đường ấy được hoàn thành, chắc chắn những người lính còn phải đổ nhiều mồ hôi, công sức. Có lẽ hiểu được những điều đó nên hôm gặp chúng tôi ở điểm thi công của Công ty Cổ phần 36.55, TS Trần Hồng Mai, Viện trưởng Viện Kinh tế xây dựng (Bộ Xây dựng) nói với giọng rất tâm đắc: “Con đường này chỉ có thể làm được khi có sự bền bỉ, dẻo dai, sức chịu đựng gian khổ và đặc biệt là kỷ luật sắt của người lính. Mỗi chuyến đi thực tế càng làm chúng tôi thêm cảm phục tinh thần "bạt núi mà đi, mở đường mà tiến" của bộ đội thời bình”.
Bài và ảnh: VŨ QUANG THÁI