Trong một chiều tháng Tư nhạt nắng ở Đà Nẵng, tôi được nghe tâm sự của một cô giao liên, chỉ trong hai năm liên tục có… hai người chồng hy sinh. Từ đó đến nay, chị hăng say công tác và… chung thủy thờ chồng. Cô giao liên ấy là Trần Thị Mai, hiện trú tại 83, đường Ngô Xuân Thu, thành phố Đà Nẵng.

Nên duyên tuổi trăng tròn

Thị trấn Nam Ô (Hòa Vang, Đà Nẵng) những năm đầu thập niên 60 thế kỷ trước, địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Cảnh bắt bớ, giết chóc diễn ra thường xuyên. Nhưng địch càng khủng bố bao nhiêu thì phong trào cách mạng càng lên cao bấy nhiêu. Nhà nhà theo cách mạng, người người làm cách mạng. Cô thôn nữ Trần Thị Mai, mới 16 tuổi đã làm giao liên của cánh Bắc Hòa Vang.

Sống trong một thôn, cùng tham gia phong trào từ những ngày chăn trâu cắt cỏ, anh thanh niên Trần Kim Cát để ý đến cô bé nhà bên từ lúc nào không hay. Lúc bấy giờ, cảnh sát, mật vụ luôn theo dõi hoạt động của những gia đình có người thân đi tập kết. Biết anh Cát thương mình, Mai hỏi anh có sợ liên lụy không khi ba cô tập kết ra Bắc. Cát khẳng khái đáp: “Ba anh không đi tập kết nhưng cũng là đảng viên”.

Chị Trần Thị Mai.

Nhiều đêm bên nhau đi phát động quần chúng phá kềm, anh tâm sự: “Ba mẹ anh chấm em rồi đấy”. Nghe anh nói, hiểu được tình cảm của người mình yêu thương, Mai nghĩ: “Tuổi mình còn nhỏ, nhiệm vụ cách mạng phía trước nhiều cam go”. Đắn đo mãi, cô mới thì thầm bên tai anh: “Chúng mình chờ hết chiến tranh hãy cưới anh nhé!”. Nhưng chiến tranh ngày càng khốc liệt, không hẹn ngày kết thúc. Khi tình yêu cách mạng và tình yêu đôi lứa quyện chặt vào nhau đến độ thăng hoa, họ quyết định tiến tới hôn nhân. Ngày 6-5-1962, đám cưới được tổ chức khi cô dâu đang tuổi trăng tròn. Không có tuần trăng mật, cưới hôm trước, hôm sau ai vào việc nấy. Cô giao liên Mai tiếp tục xẻ núi, luồn rừng, chuyển tài liệu... Đôi vợ chồng trẻ thống nhất chưa sinh con để yên tâm công tác.

Địch liên tục càn quét khu vực Nam Ô, Hòa Hiệp… Đứng trước khả năng có thể bị lộ, năm 1964, anh Cát thoát ly lên chiến khu. Dẫu không gian không xa nhưng chiến tranh đã biến anh chị thành vợ chồng Ngưu Lang-Chức Nữ. Thỉnh thoảng, anh xuống núi công tác hoặc chị lên báo cáo tình hình, hai người mới có điều kiện gặp nhau. Tiếc rằng những phút giây hạnh phúc hiếm hoi ấy không kéo dài được đến ngày chiến thắng. Trong trận chống càn ngày 6-5-1966, anh Trần Kim Cát đã anh dũng hy sinh. Tròn 4 năm chiến đấu bên nhau, vừa tình đồng chí, vừa nghĩa chồng vợ, Mai bàng hoàng chôn giấu nỗi đau, cô ôm tấm hình của anh thề sẽ chiến đấu bằng hai.

Hoãn cưới... diệt ác ôn

Cảm thông với nỗi đau của người cán bộ cơ sở, Chính trị viên khu đội Trần Anh Quyên thường lui tới tâm sự, động viên. Những lúc như vậy, Mai cảm thấy ấm lòng hơn. Thực ra, họ biết nhau nhiều năm trước, khi anh rời quê hương Điện Hồng (Điện Bàn, Quảng Nam) ra nhận nhiệm vụ. Nhưng anh là thủ trưởng của chồng nên chị ít quan tâm. Bây giờ, anh Cát đã hy sinh, Mai mới có dịp nghe anh Quyên kể về tuổi thơ gian lao, buồn khổ. Gia đình anh, người bị địch sát hại, người bệnh chết. Quyên như cây non côi cút lớn lên. Hơn 10 tuổi, anh phải đi làm thuê kiếm sống. Kỷ niệm Quyên mang theo khi “lên núi” làm cách mạng là những trận đòn roi.

Anh chia sẻ với chị nỗi đau to lớn. Mai thương anh không còn ai thân thích trên đời. Tình yêu trong cách mạng thêm một lần làm nên điều kỳ diệu. Khi anh ngỏ lời xin thay thế người đã hy sinh chăm sóc chị. Chị suy nghĩ mấy ngày rồi quyết định đón nhận tình yêu bằng trái tim người vợ, người chị, người em… trong gia đình. Được sự đồng ý của tổ chức, anh tổ chức lễ xin dâu. Đơn vị hôm ấy vui như hội…

Trước hôm đưa dâu, ngập ngừng ướm thử chiếc áo mới, Mai nghĩ vẩn vơ: “Ngày mai mình… lại làm dâu”. Anh hứa sẽ tặng chị món quà đặc biệt khi tiến hành hôn lễ. Bất ngờ, Mai nghe tiếng tắc kè kêu rất nhẹ. Chị biết các anh dưới đó gọi về. Vì lúc này chị là đảng viên hoạt động hợp pháp. Sau khi thông báo cho anh Quyên biết, chị vội vã lên đường.

Đồng chí Nguyễn Văn Hồ (Bí thư khu I, cánh Bắc Hòa Vang) trực tiếp giao nhiệm vụ. Anh thông báo tình hình: “Hiện nay, tên trung sĩ Mao, là ác ôn khét tiếng ở thị trấn Nam Ô đã trở lại quê hương. Hắn lớn tiếng tuyên bố: “Tao làm trưởng thôn Thủy Tú. Việt cộng mà về đây thì cứ nhổ nước miếng lên mặt tao”. Nó tổ chức kiểm tra, phong tỏa kinh tế ráo riết nên nhân dân không tiếp tế lương thực, thuốc men lên chiến khu được. Ta chủ trương tiêu diệt tên này. Tổ chức đã cân nhắc, ngoài đồng chí Mai thì khó ai có thể làm được. Nhưng ngày mai đồng chí cưới chồng, bây giờ nhận nhiệm vụ, đồng chí nghĩ thế nào?”. Mai trả lời không đắn đo:

- Tôi sẵn sàng gác tình yêu lại, hoãn ngày tổ chức đám cưới để hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao.

Anh Hồ yên tâm trao cho chị hai quả lựu đạn M26. Mai đem về cất trong bao lúa.

Nhà tên Mao cách nhà chị khoảng 200 mét. Ban ngày, thỉnh thoảng Mai vẫn trông thấy hắn đi làm. Nhận nhiệm vụ, đêm thứ nhất chị để ý thấy tên ác ôn về nhà khoảng 21 giờ đến 22 giờ. Hôm sau, Mai lững thững đi dạo. Khoảng 20 giờ, khi hai bên đường tấp nập người qua lại, chị lợi dụng đám đông lén nhìn vào nhà tên ác ôn. Hắn vẫn chưa về. Quay lại Quốc lộ 1, Mai phát hiện thấy tên Mao chạy xe từ Đà Nẵng lên. Bình tĩnh quan sát, Mai thấy hắn đi tuốt vào ngõ. Biết chắc tên này đã ở nhà, chị chạy về lấy một quả lựu đạn, rút chốt dùng khăn mùi xoa quấn lại. Cầm lựu đạn trong tay, Mai đi như người tập dưỡng sinh. Đến trước cửa nhà tên Mao, chị đi thẳng vào. Tên ác ôn đang ngồi ở bàn, miệng há hốc kinh hoàng. Mai ném mạnh trái lựu đạn vào người nó. Một tiếng nổ chát chúa vang lên. Người đi đường chạy tán loạn. Mai thản nhiên hòa vào đám người nhốn nháo. Chị về nhà tắm giặt, thay quần áo rồi ra cửa nắm tình hình. Mẹ Mai biết con gái mình đã làm việc đó. Bà sợ bị lộ, động viên Mai thoát ly. Chị bảo: “Má yên tâm! Con không sao đâu. Má bình tĩnh giữ kín cho con”. Hôm sau, nhân dân phấn khởi loan tin: “Đêm qua, đằng mình về ném lựu đạn vào nhà tên Mao. Hắn bị thương nặng phải đưa đi cấp cứu”. Từ đó, không tên nào dám nhận chức trưởng thôn Thủy Tú.

Hoàn thành nhiệm vụ, Mai trở lại chiến khu. Một ngày đầu tháng 2-1967, đám cưới của cô giao liên Trần Thị Mai và chú rể Trần Anh Quyên được tổ chức tại căn cứ Núi Chúa. Cô dâu rạng rỡ nụ cười hạnh phúc. Mọi người không thể ngờ rằng cô vừa xử một tên phản dân, hại nước. Chỉ có anh, trong chiếc hôn đằm thắm đã thì thầm: “Chúc mừng… đồng chí vợ”. Kết thúc ngày vui, cô dâu tiếp tục vai trò bí thư chi bộ, hoạt động hợp pháp. Chú rể ở chiến khu luôn “mơ về bên em”. Nhưng giấc mơ ngắn chẳng tày gang. Ngày 27-12-1967, trên đường đi công tác, anh Quyên bị địch phục kích tại Xuân Thiều, Hòa Hiệp (Hòa Vang). Nhận được tin chồng hy sinh, Mai lặng lẽ xé chiếc màn xô lén cột lên đầu. Chị quỳ trước chân dung anh im lặng. Hai năm, 2 người chồng ngã xuống. Nỗi đau thương, lòng căm thù giặc khiến Mai không còn nước mắt.

Mãi mãi bên anh

Liệt sĩ Trần Anh Quyên (người đứng sau), ảnh chụp khi còn học ở trường Sĩ quan Lục quân 1 (ảnh gia đình cung cấp).

Sau ngày chồng hy sinh, chị Mai cũng bị địch bắt trong một trường hợp đặc biệt. Tối hôm ấy, sau khi trao đổi công việc, đường xa, Mai ở lại công sự cùng các đồng chí: Thúy, Ngôn, Tròn tại xã Hòa Lạc (tức xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang). Khoảng 5 giờ sáng ngày 27-3-1968, vì công sự chật chội nên các anh đề nghị Mai trở về chiến khu trước. Vừa lên khỏi miệng hầm, quan sát từ phía sau rặng tre, chị phát hiện địch đang bò vào. Tình thế thật nguy nan. Nếu chị tụt xuống thì ai ngụy trang miệng hầm? Nếu chị lên chắc chắn bị bắt. Các anh bảo chị xuống để thay người. Nhưng ai lên cũng vậy. Không chần chừ, Mai vọt lên khỏi công sự. Ngụy trang công sự xong, chị giấu tài liệu vào đống rơm. Trong vai người nông dân thăm lúa sớm, Mai bình tĩnh đi vào làng. Mấy tên lính vội vàng đứng dậy đuổi theo. Chúng đánh chị tơi tả, bắt chị chỉ hầm bí mật. Nhưng Mai vẫn khăng khăng trả lời mình là nông dân đi thăm lúa, không biết hầm bí mật ở đâu. Tin chắc đã bắt được Việt cộng, địch bỏ cuộc càn đưa chị về đồn. Chúng giam chị ở Hội An. Tuy nhiên, do không khai thác được gì nên tháng 7-1969, Mai được trả tự do. Trở lại chiến khu, chị trúng cử vào Ban Chấp hành Đảng ủy khu I. Mai luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị mới. Thấy chị còn mặn mà nhan sắc, nhiều người đánh tiếng muốn se duyên, nhưng người vợ liệt sĩ ấy khẳng định: “Anh Quyên là tất cả”.

Nước nhà thống nhất, chị học bổ túc văn hóa và tham gia lớp bồi dưỡng lý luận cách mạng rồi làm cán bộ công đoàn huyện Hòa Vang. Năm 1983, chị về hưu và tham gia công tác Hội Cựu chiến binh, Ủy viên Ban Chấp hành Hội người tù yêu nước. Chị Trần Thị Vinh, nguyên Ủy viên Huyện ủy Hòa Vang, hiện trú tại phường Hòa Hiệp Bắc nói: “Trên mặt trận nào, cô Mai cũng là người đảng viên gương mẫu”.

Tạm biệt nữ giao liên có hai người chồng liệt sĩ, chị siết chặt tay tôi nói: “Nhờ sự quan tâm giúp đỡ của đơn vị hầm Hải Vân và Quận ủy quận Liên Chiểu, tôi sắp… có nhà”. Trong tiếng búa chan chát, tôi biết chị không cô đơn…

Đà Nẵng, tháng Tư năm 2009

Bài và ảnh: NGUYỄN SỸ LONG