 |
|
Chị Nguyễn Thị Huấn (giữa) tại Đại hội CSTĐ QK5 năm 1974. Ảnh tư liệu
|
Ngày ấy, hơn 400 cô gái tuổi mười tám, đôi mươi đã không ngại gian khổ, vượt núi, băng rừng vận chuyển hàng chục ngàn tấn hàng hóa, góp phần chi viện cho bộ đội Khu 5 giội bão lửa xuống đầu thù. Những nữ chiến sĩ “vai trăm cân, chân vạn dặm” năm xưa giờ tóc đã hoa râm, nhưng tâm tưởng của họ vẫn không phai mờ ký ức về những năm tháng hào hùng ấy...
Kỳ 1: Tuổi xuân gửi lại chiến trường
Chúng tôi tìm đến căn nhà nhỏ của chị Phạm Thị Thao (nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn vận tải 232) nằm sâu trong hẻm tổ 10 Tuyên Sơn, phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu (Đà Nẵng)... Dáng người mảnh mai, đôi mắt phúc hậu, trông chị trẻ hơn nhiều so với độ tuổi.
Sau khi rót nước mời khách, giọng chị trầm lắng: “Ngày ấy chiến tranh khốc liệt, tuổi thanh xuân chúng tôi gửi lại trên những cung đường máu lửa. Bây giờ hòa bình, còn sống như thế này đã là may mắn lắm rồi, chỉ tiếc thương đồng đội nằm sâu dưới lòng đất lạnh...”.
Câu chuyện chị Thao kể, giúp chúng tôi hiểu thêm cuộc sống gian khổ của những cô gái Khu 5 kiên cường... Ngày ấy, quân địch lùng sục, càn quét, đánh phá ác liệt trên khắp các tuyến đường dọc chiến trường Khu 5. Quân ta bắt đầu mở các cuộc tấn công vào sào huyệt của địch trên quy mô rộng lớn, do vậy nhu cầu lương thực, vũ khí, thuốc men đòi hỏi ngày càng nhiều và cấp thiết hơn. Trước thực tế đó, toàn tiểu đoàn dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, nhiều phương châm, khẩu hiệu hành động thiết thực như “Không tính khối lượng, không tính chỉ tiêu, có sức bao nhiêu cống hiến tất cả”, “Quyết không để bộ đội trên chiến trường đói rét, thiếu vũ khí, thiếu đạn dược”, “Tiền tuyến gọi, hậu phương trả lời”... càng tiếp thêm niềm tin, dũng khí cho người chiến sĩ trên mặt trận. Trong điều kiện khó khăn, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn vận tải 232 đã dũng cảm vượt lên chính mình. Không kể ngày đêm, các chị âm thầm, lặng lẽ băng đèo, vượt suối, trên lưng gùi, cõng số lượng hàng hóa gấp đôi trọng lượng cơ thể. Đã vậy, nhiều hôm gặp địch lùng sục, càn quét, họ phải cắt rừng vòng tránh. Đói, rét, bệnh tật nhưng các chị vẫn hành quân dưới những cơn mưa rừng tầm tã, lạnh thấu xương, hoặc nắng cháy thịt da. Không chỉ vận chuyển vũ khí, trang bị phục vụ chiến trường, sẵn sàng chiến đấu đánh địch bảo vệ hàng hóa, bảo vệ những cung đường bí mật, các chiến sĩ còn cải trang về tận đồng bằng vận chuyển gạo, muối, thuốc men lên rừng phục vụ thương binh, bệnh binh. Những lần bom Mỹ đánh sập đường, các chị lại tay dao, tay cuốc hối hả mở đường, dựng lán trại, làm kho chứa hàng...
Còn nhớ, mùa khô năm 1969, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng mở chiến dịch Xuân Hè, chỉ tiêu trên giao mỗi người 40kg/chuyến, nhưng chị em phấn đấu tăng trọng lượng gấp đôi, có chị đạt trên 100 kg/chuyến. Mặc rét, mặc mưa, bất chấp muỗi rừng, sên, vắt, các chị động viên nhau quyết tâm tăng chuyến, đẩy nhanh tiến độ giao hàng. Như con thoi thoắt ẩn, thoắt hiện giữa những cánh rừng già, trung bình mỗi năm Tiểu đoàn vận chuyển 5.019 tấn hàng, với quãng đường đi bộ hàng vạn ki-lô-mét...
Chị Thao đang say sưa kể, thì chị Lê Thị Cúc và chị Nguyễn Thị Huấn (nguyên cán bộ Đại đội 2) tới để hội ý ban liên lạc. Chị Cúc vào chuyện rất tự nhiên: “Chú đang tâm sự với bà Thao về “Hai ba hai” à? Chuyện dài lắm, kể cả ngày không hết đâu!”. Nói xong chị kể luôn: “Ngày ấy đói rét như rứa nhưng chúng tôi vẫn hồn nhiên, thanh thản đón nhận khó khăn về mình. Vai mang đầy gạo vậy mà chẳng ai đụng tới một hạt. Đói lòng thì ăn sắn, khoai, rau rừng trừ bữa, gạo để dành cho tiền tuyến. Chỉ những đợt cao điểm phục vụ chiến dịch, cấp trên mới tăng cường mỗi người nửa lon gạo, nhưng chị em vẫn chẳng ai chịu ăn, dành nấu cháo cho thương binh. Khó khăn thời chiến thì không thể kể hết, có đợt cả tuần không tìm ra nước, khát cháy cổ họng. Đợi mưa xuống, chị em múc nước đọng từ hố bom để gội đầu thì bị nhiễm độc, rụng hết tóc. Áo quần mỗi năm vài bộ, luồn rừng gai cào, nhựa bám rách tơi tả, vá chằng, vá đụp mới tạm đủ che thân. Mùa mưa, lũ từ thượng nguồn đổ về chảy cuồn cuộn, được tấm ni-lon cá nhân dùng đậy hàng hóa, vậy là toàn thân ướt sũng, người rét run bần bật mà vẫn cắn răng cố chịu đựng... Thế mà chúng tôi vẫn không ai thoái thác nhiệm vụ, vẫn quyết tâm vận chuyển hàng theo tiếng gọi của tiền tuyến”.
Chị Cúc ngừng lời, quay sang nói với tôi: “Chú muốn viết hay, viết sâu thì hỏi bà Huấn, kiện tướng gùi hàng cừ khôi của tiểu đoàn chúng tôi đấy. Ngày ấy, Huấn là con chim đầu đàn, việc khó mấy cũng vượt qua bằng được!”. Chị Huấn cười bẽn lẽn, khiêm tốn trả lời: “Hồi đó, chiến trường vẫy gọi, ở trong điều kiện ấy thì ai cũng hành động như tụi tui thôi mà!”.
 |
|
Chiến sĩ Tiểu đoàn 232 tải đạn ra chiến trường. Ảnh tư liệu
|
Chị Huấn khiêm tốn vậy, nhưng người dân miền Trung - Tây Nguyên hồi đó ai cũng biết chiến công phi thường của nữ Chính trị viên phó Đại đội 2 nhỏ nhắn, có nụ cười tươi như cánh hoa rừng. Còn nhớ trận đánh sân bay Chu Lai (1970), dù đang lên cơn sốt, nhưng chị Huấn vẫn cắn răng cõng 2 quả đạn ĐKB với tổng trọng lượng xấp xỉ 120kg vượt đèo dốc. Đầu năm 1972, Đại đội 2 nhận nhiệm vụ vận chuyển khẩu cối 120mm vào trận địa. Ban chỉ huy họp bàn mãi vẫn chưa tìm ra giải pháp phù hợp, vì súng cối cồng kềnh, gùi cá nhân không nổi, mà hai người khiêng thì không bảo đảm an toàn. Suy đi tính lại, Huấn xung phong nhận về mình. Suốt đêm ấy, chị thức trắng, loay hoay tìm đủ mọi cách buộc dây, gùi thử. Lúc đầu chị đứng dậy không nổi vì đế súng quá nặng, chân đế choãi ra rất vướng. Cuối cùng chị nghĩ ra cách chèn thêm gỗ vào cho chặt. Mờ sáng hôm sau, một mình chị Huấn gùi đế khẩu cối 120mm vượt khe Chín Khúc, băng đồi Thanh Sơn đến vị trí giao hàng đúng thời gian, quy định.
Câu chuyện đang rôm rả, chị Thao bỗng đứng dậy, bước đến cạnh bàn thờ thắp mấy nén nhang. Không gian mùa hạ như lắng lại. Giữa khói hương trầm ngào ngạt, giọng chị bùi ngùi: “Đã mấy chục năm trôi qua, vậy mà tôi vẫn cứ thấy đồng đội như về quanh đây. Tội nghiệp, các cô ấy hy sinh khi tuổi đời còn quá trẻ, ngã vào lòng đất vẫn còn trinh nữ... Thương cái Lâu vừa nhận lời hẹn ước với một chàng trinh sát quê Hà Nội, chưa kịp mừng thì đã ra đi... Cô ấy hy sinh trên suối Nước Chè, nước lũ tràn về cuốn trôi”. Mùa mưa năm 1972, nhận lệnh qua Trà Ôn để kịp thời vận chuyển hàng ra mặt trận, Chính trị viên phó đại đội Nguyễn Thị Lâu đã lao mình xuống dòng Nước Oa chảy xiết nhằm bơi qua bờ bên kia buộc dây cho đồng đội gùi hàng vượt sông. Nhưng vừa ra tới giữa sông thì lũ dữ đã nhấn chìm người con gái dũng cảm ấy xuống dòng nước đục ngầu, hung hãn. Ba ngày sau, dòng sông xanh trong trở lại, đồng đội mới tìm thấy chị cùng gùi hàng trên vai, ngồi thanh thản tựa lưng vào vách đá cách bến lội không xa. Những đồng đội đang sống hôm nay nhớ mãi hình ảnh nữ chiến sĩ vận tải 4 năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua-người từng cõng 19 tấn hàng/năm, đã vĩnh viễn ra đi như một người anh hùng. Trước đó, vào năm 1968, chị Thao cùng các chị em gùi hàng qua vùng trọng điểm đánh phá ác liệt của địch (đoạn từ Đại Lộc đến Quế Sơn). Giao hàng xong, khi trở về thì bị địch phát hiện. Chúng gọi phi pháo bắn liên hồi từ 16 giờ chiều đến tận sáng hôm sau. Đêm ấy, một viên đạn 105mm nổ ngay miệng hầm đá Sơn Thạch (Quế Sơn), 6 chị hy sinh tại chỗ, 6 chị bị thương nặng. Chị Thao may mắn sống sót trong trận này, nhưng mãi hơn 2 tháng sau vẫn còn bị sức ép của đạn pháo hành hạ.
Chị Phạm Thị Thao kể tiếp: “Cuối mùa khô năm 1969, bọn lính dân vệ, địa phương quân tuần tra ráo riết, mật thám lùng sục khắp nơi. Đêm ấy, cả tiểu đoàn bí mật hành quân về Xuyên Thanh lấy gạo. Nhờ tổ chức tốt các lực lượng cảnh giới, vận chuyển, nên công việc diễn ra khá suôn sẻ, nhưng khi chị Huỳnh Thị Lựu (Chính trị viên Đại đội 1) gùi trên vai 90kg gạo lội ra giữa dòng sông Xuyên Thanh thì bị pháo địch bắn vào chân. Tình huống xảy ra quá bất ngờ. Lúc này tôi gùi 100kg gạo, vừa sang sông, chưa kịp nghỉ lấy sức, vội quay lại cõng luôn bao gạo và dìu chị Lựu qua sông dưới làn pháo địch. Về tới vị trí an toàn thì cũng là lúc tôi mệt rã rời, người lả đi vì đói, khát...”.
Trong suốt 4 năm chiến đấu và phục vụ chiến đấu, dấu chân những nữ chiến sĩ vận tải Tiểu đoàn 232 đã in khắp vùng núi Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, đường 9 Nam Lào. Những địa danh một thời oanh liệt như dốc Lò Xo, Hòn Kẽm, Đá Dừng, đèo Le, đèo Phượng Tổng... đều thấm máu của “đội quân tóc dài”. Máu xương của các chị đổ xuống, thấm đẫm những nẻo đường đất mẹ miền Trung, sự hy sinh ấy đã thành bất tử.
PHAN TIẾN DŨNG
Kỳ 2: Nỗi đau dai dẳng