QĐND - Một người đảng viên cộng sản - người tù Côn Đảo mà tôi được tiếp cận sớm nhất là đồng chí Đoàn Duy Thành.

Vào những năm 80 của thế kỷ trước, khi mà tình hình kinh tế đất nước lâm vào cảnh khó khăn tột cùng, lớp thanh niên trí thức chúng tôi lúc đó ngồi đâu cũng bàn tán, trao đổi muốn góp phần vào việc tìm ra lối thoát cho đất nước. Nhiều cuộc hội thảo, nhiều buổi thuyết trình của các nhà kinh tế nước ngoài được tổ chức. Người ta tìm đến với các học thuyết kinh điển như: Kant, Adam Smit, Keyness... mong muốn tìm được một lối thoát cho nền kinh tế Việt Nam đang chìm sâu dưới đáy vực thẳm. Nhưng có lẽ nền kinh tế Việt Nam thời điểm đó đã quá yếu, các lý thuyết kinh điển trên không giúp được gì nhiều trong việc tìm ra lối thoát. Giữa lúc ấy, người ta bàn tán xôn xao đến “Hiện tượng Hải Phòng”. Cũng chỉ là những thông tin truyền miệng, chưa có một cơ quan có trách nhiệm nào tổng kết, đánh giá, vì thế báo chí cũng đưa tin dè dặt. Tình hình chỉ rộ lên khiến cả nước hướng về Hải Phòng khi bài thơ của anh Tố Hữu gửi nhân dân Hải Phòng: “Bốn cống, ba cầu, năm cửa ô/Đào kênh, lấn biển, mở cơ đồ/Làm ăn, hai chữ, à ra thế!/Chèo chống ngàn tay một tiếng hô...”.

Trong bài thơ trên, tôi thích nhất là câu “Làm ăn, hai chữ, à ra thế!...”. Một câu cảm thán bật thốt ra từ một sự chiêm nghiệm, suy ngẫm chín muồi của người lãnh đạo kinh tế cao cấp của Đảng và Chính phủ lúc đó. Đó là một khẳng định sự đúng đắn của những việc làm có tính đột phá trong cách làm ăn của Hải Phòng.

Ông Đoàn Duy Thành (bên phải) trên cảng Đình Vũ hôm nay. Ảnh: ĐỨC LONG.

Sự động viên khích lệ kịp thời của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ là “Thượng phương bảo kiếm” giúp cho lãnh đạo Hải Phòng tự tin hơn, dũng cảm hơn trong vai trò người mở đường sáng tạo. Sự thống nhất cao trong lãnh đạo của Thành ủy, UBND thành phố, sự nhất trí một lòng của nhân dân đối với người cầm lái “Chèo chống ngàn tay một tiếng hô...” đã đưa Hải Phòng tiến mạnh, thực hiện một cuộc “Đổi mới” trước “Đổi mới” và điều này tôi nghĩ chỉ có thể biến thành hiện thực khi người lãnh đạo, người cầm lái phong trào có tính cách mạng cao, đó là người thông minh, quyết đoán, toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp cách mạng, vì mục đích đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân. “Một tiếng hô” ấy có lẽ là tiếng hô của Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đoàn Duy Thành.

“Làm ăn hai chữ quen mà lạ...” tiếp nối dòng suy nghĩ cách làm ăn của Hải Phòng, sau này, trong một bài thơ anh Tố Hữu lại viết như vậy. Quả là “lạ” thật. Lật những trang lịch sử kinh tế của mỗi quốc gia có lẽ không ở đâu có cách tích lũy nội lực như cách làm của Hải Phòng, vận động học sinh xuống ruộng bắt đỉa để xuất khẩu, cho người lên rừng nhặt từng cân sa nhân đem đi bán... mà hàng xuất khẩu chỉ tính bằng ki-lô-gam! Chỉ có Bí thư Thành ủy Hải Phòng mới làm như vậy và chính Hải Phòng đã đi lên từ những bước đi chập chững ban đầu đó.

Cái thành công đáng nói của Hải Phòng không phải chỉ là xây được “ba cầu, bốn cống...”, không chỉ là ở chỗ “đào kênh lấn biển”, tạo ra được một khu công nghiệp Đình Vũ, đắp đường nối các đảo, mà điều cống hiến quan trọng nhất của Hải Phòng cho công cuộc đổi mới của đất nước là nó đã gợi ra được những đường đi nước bước, những định hướng cơ bản để hình thành một đường lối đổi mới chung của đất nước.

Câu nói của đồng chí Đoàn Duy Thành: “Chúng tôi không xin tiền, chỉ xin một cơ chế” đã chỉ ra rằng, việc đổi mới đầu tiên phải làm là việc đổi mới cơ chế quản lý đất nước.

Từ ngày anh về hưu, tôi ít được nghe về anh. Đôi lúc vẩn vơ suy nghĩ: “Không biết các bác này về hưu rồi làm gì nhỉ?”. Tình cờ, một hôm mấy người bạn rủ tôi đến thăm anh. Anh vẫn thế, vẫn phong thái ung dung, nét mặt đôn hậu, cử chỉ mực thước, trên bàn la liệt các báo và tạp chí. Tôi để ý thấy một cuốn sách bìa da đã “lên nước”, giấy đã úa vàng, chữ Hán, đó là cuốn “Kinh Xuân Thu” của Khổng Tử. Đoàn chúng tôi không ai “cơ cấu” sắp xếp, nhưng có đủ các thành phần: Giáo sư, cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, chuyên viên cao cấp đã từng làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, một số nhà văn, nhà thơ... Anh hòa nhập với chúng tôi rất nhanh, rất bình dị, chuyện trò vui vẻ, hết chuyện thời cuộc đến chuyện tiếu lâm rồi bình thơ, đọc thơ...

Thấy vui, anh mời chúng tôi về quê anh ở xã Cộng Hòa, huyện Kim Thành (Hải Dương) chơi. Xe chúng tôi chạy bon bon trên những con đường bê tông, hai bên đường lúa xanh mượt mà. Chương trình xây dựng nông thôn mới: Điện - đường - trường - trạm đã làm thay đổi một cách cơ bản bộ mặt làng quê.

Ngôi nhà của anh được xây cất trên khu đất 500m2 do cha ông để lại. Hai hàng râm bụt lá xanh mượt mà dẫn chúng tôi vào. Bước vào nhà, tầng trệt anh để làm thư viện với hơn 6000 đầu sách, tạp chí: Lê-nin toàn tập hơn 50 cuốn, Lịch sử Đảng CSVN; Nghị quyết các kỳ Đại hội... Và điều đặc biệt làm chúng tôi thích thú là có cả Hồng Lâu Mộng, Đông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thủy Hử... có cả các tác phẩm của Tôn-xtôi, Gô-gôn, Léc-môn-tốp... rồi Vôn-te, Ban-dắc... Chỉ là một thư viện cá nhân nhưng cái hay của nó là ở cách quản lý làm cho nó có sức lan tỏa và phát huy tác dụng toàn vùng, những người quản lý thư viện là các giáo viên, học sinh con cháu của anh. Độc giả của thư viện không chỉ là người làng mà cả những người xã khác, rất nhiều giáo viên và cán bộ huyện cũng là độc giả quen thuộc của thư viện.

Buổi chiều, anh dẫn chúng tôi đi thăm ngôi nhà thờ tổ họ Đoàn, ngôi nhà thờ vừa được xây dựng tu bổ lại khang trang. Trước mặt là hồ sen bán nguyệt. Hai cây bồ đề uy nghi đứng trước sân nhà thờ tạo nên một quang cảnh trang nghiêm và một cái gì đó thiêng liêng. Bà con trong họ, ngoài làng gặp chúng tôi hớn hở khoe: “Ngày giỗ tổ họ Đoàn vừa rồi, bà con trong cả nước về họp mặt rất đông, có người đã bỏ quê hơn 60 năm nay cũng dẫn con cháu về cho biết tổ, biết tông... vui và cảm động lắm!”.

Từ hai việc làm: Tổ chức một thư viện và tu bổ ngôi nhà thờ họ khi anh đã về hưu, ở tuổi 80... trong tôi xuất hiện một câu hỏi: “Tại sao anh làm hai việc này?”. Liên tưởng đến cuộc đời công tác của anh, từ khi là Bí thư Thành ủy Hải Phòng, rồi Bộ trưởng, rồi Phó thủ tướng và nhiều cương vị khác, ở đâu những công việc anh làm đều có ý nghĩa đặt nền tảng cho một sự phát triển lâu bền, là những việc làm có tính chất mở lối, bổ sung thêm cho những chủ trương chính sách hiện hành của Đảng và Chính phủ. Tôi đứng ngắm cảnh làng quê đổi mới với “Điện - đường - trường - trạm”… chợt nhận ra rằng, bốn yếu tố “vật thể” trên rất cần nhưng chưa đủ. Cái cảm thấy “thiếu thiếu”, chính xác hơn là bị mai một bởi hoàn cảnh lại nằm ở góc độ “phi vật thể” trong văn hóa làng mà quan hệ họ tộc - một mối quan hệ thiêng liêng trong tâm hồn người Việt, là một ví dụ. Nhà thờ họ sẽ là nơi neo đậu tinh thần của những người cùng huyết thống tạo thành việc cố kết dòng tộc và từ đó khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, phát triển, truyền thống cha ông được nuôi dưỡng và phát huy. Tôi hình dung ra trên nền tảng một nông thôn mới, với: Điện - đường - trường - trạm nếu có thêm một thư viện (thậm chí sau này có thể xây dựng thêm nhà hát), có các nhà thờ họ tộc tôn nghiêm, có mái đình rêu phong cổ kính cùng với cây đa sân đình, lũy tre làng trước ngõ thì đây sẽ là nơi hội tụ hồn quê làm tôn lên tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc trong lòng người dân Việt cho bây giờ và cho mãi mãi muôn đời sau...

Tôi lặng lẽ đi bên anh. Trời xế chiều, chúng tôi xin phép anh trở về Hà Nội. Một ngày ở quê anh, một vùng đất thanh bình của làng quê sau đổi mới đẹp như một bức tranh, chúng tôi không ai nói với ai điều gì nhưng trong đầu đều nghĩ đến cuộc đời của anh, của một người tù Côn Đảo, đã từng bị đọa đầy ở chốn “địa ngục trần gian”, rồi khi ra tù đã đảm nhiệm nhiều chức trách khác nhau, nghĩ về những việc anh đã làm khi còn đương chức cũng như khi đã về hưu, cho đến bây giờ ở tuổi 80, anh vẫn gắng sức làm cho cuộc đời này đẹp hơn, đất nước này đẹp hơn.

Nhà văn VÕ XUÂN TƯỜNG