Giữa năm 1966, thời điểm mà đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc ác liệt nhất, tiểu đoàn pháo cao xạ mang tên Nguyễn Viết Xuân của chúng tôi được điều về tăng cường cho ga Quán Hành thuộc địa phận xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc.

Ga chỉ có một ngôi nhà năm gian vừa là nơi chỉ huy tàu, bán vé, vừa là phòng đợi của hành khách, trơ trọi giữa cánh đồng như là điếm canh, bị bom Mỹ đánh sập ngay từ những ngày đầu chiến tranh phá hoại.

Bấy giờ, thành phố Vinh bị máy bay Mỹ đánh cho trơ trụi, phà Bến Thủy qua sông Lam luôn bị tắc, thì ga Quán Hành cách Thành phố Vinh 12 cây số là nơi tập kết hàng hóa theo đường sắt từ Bắc vào Nam. Ga có vị trí quan trọng như vậy, nên trước đó đã có một tiểu đoàn pháo cao xạ, hai tiểu đoàn tên lửa đóng ở Núi Riềng, đồi 200 vừa bảo vệ ga vừa khống chế địch khi chúng đánh Cầu Cấm, sân bay Nghi Liên.

Tiểu đoàn chúng tôi đóng quân thành ba cụm xung quanh ga Quán Hành. Đại đội của tôi xây dựng trận địa trên cánh đồng màu Rầy Neo, khi nghỉ thì vào ở nhờ nhà dân xóm Đoài. Tôi là cán bộ chỉ huy cấp đại đội nên được ưu tiên ở nhà anh Nguyễn Phú Niêm, trung đội trưởng trung đội trực chiến xã. Nhà anh lợp ngói, có giếng nước, thuộc diện khá nhất làng. Hôm mới về, đích thân anh Nguyễn Khắc Tràng, chủ tịch xã đưa tôi đến nhà anh Niêm, giới thiệu:

- Anh Niêm đây là con nhà nòi đấy. Ông cụ thân sinh là ông Nguyễn Phú Kinh, đảng viên “lớp ba mươi, ba mốt”. Vô tư lắm, ông bán cả nhà để đi hoạt động cách mạng đấy. Còn anh Niêm cũng đi bộ đội từ năm 1949, vào Đảng năm 1953. Gan như cóc tía, làm việc được, chỉ tội tính nóng như lửa. Bây giờ anh chỉ huy 5 khẩu 12,7mm và 14mm đánh trận nào ra trò trận ấy. Hôm 21-4, quân ta hạ được một thằng (máy bay) F4 rồi đấy.

Tối hôm đó anh Niêm còn dẫn tôi đến nhà anh Nguyễn Đình Hương, xã đội phó rồi đến nhà cô Lý ở sát vườn. Anh Niêm chỉ vào tôi, nói dở đùa dở thật với ông An, bố của Lý.

- Anh này chưa vợ là “Nhất chân chì, nhì bốn túi” đấy ông ạ - Rồi hướng vào nhà trong nói rõ to - Nào, cô Lý có ưng thì tôi giới thiệu làm rể luôn!

Lý ở trong buồng cười khúc khích, nói vọng ra:

- Gái đại liên, chân tay đen nhẻm như cột mối, đi nhầm ngõ rồi…

Thế nhưng như các cụ nói có duyên thì kéo cũng không ra. Sau đêm “chạm ngõ” ấy, hầu như ngày nào tôi và Lý cũng tìm cớ gặp nhau, nếu không gặp cứ bồn chồn, nôn nao thế nào ấy.

Lý là bí thư chi đoàn xóm Đông, tôi cũng phụ trách chi đoàn đơn vị nên gặp nhau là lẽ thường. Đầu tiên, chúng tôi bàn chuyện hai chi đoàn kết nghĩa. Rồi sau đó liên hoan văn nghệ, hái hoa dân chủ trong ngày lễ, ngày tết. Hội ý xong Lý thường đổ trong túi xách ra, nào khoai, nào lạc “đầu mùa” khao anh em. Bù lại, chúng tôi cũng có lương khô, kẹo làm quà cho các o trực chiến. Hai chi đoàn còn trao đổi kinh nghiệm bắn súng, băng bó cứu thương, tìm kiếm người bị sập hầm, thi văn nghệ. Hai chi đoàn càng hoạt động, chúng tôi càng có cớ gần nhau. Và cũng vì thế, nên hai bí thư càng hăng công tác…

Thấm thoắt gần một năm. Anh Niêm thấy tôi và Lý gắn nhau như sam thì mừng lắm. Anh giục tôi cưới. Tôi nói rằng, ở nhà chỉ có mẹ già, rất khó khăn kinh tế nên chưa thể tổ chức được. Anh Niêm cáu: “Ai bảo cậu làm mâm cao cỗ đầy mà kêu nghèo với chả giàu. Cứ hai tút thuốc lá, vài gói kẹo lạc là xong”. Thấy tôi chần chừ, anh cáu: “Cái Lý nó nhiều đám dòm ngó lắm chứ không phải thường đâu”. Bí quá, tôi đành xin khất tháng sau. Thật ra, tôi còn sốt ruột gấp mười lần anh, mẹ tôi cũng rối rít giục lấy vợ. Khổ nỗi khi tôi “đặt vấn đề” thì lại bế tắc ở Lý. Lần nào, Lý cũng lảng ra, hoãn khéo: “Khoan đã nào. Anh thấy cả làng cả xã này, hai năm nay đánh nhau với thằng Mỹ, có đám cưới nào đâu?”. Thấy tôi buồn, Lý lại ai ủi: “Chúng mình sống gần nhau, yêu thương thế này là hạnh phúc lắm rồi. Họ còn đi biền biệt trong Nam nữa là!”.

Quả thật, quê của Lý, thanh niên ra trận hết và hầu như không ngày nào không có tang thương. Tất cả mọi người đang gác việc riêng để lo chuyện đánh giặc.

Hôm đó là ngày 1-6-1968, từ bốn giờ sáng, máy bay Mỹ đã gào thét trên bầu trời. Tiếp đó là hàng loạt tiếng nổ đinh tai ở phía ga Quán Hành. Những cột khói cuộn lên khét lẹt. Để khống chế máy bay không cho chúng đánh trúng tàu hàng, các trận địa phòng không của ta đồng loạt nổ súng. Bầu trời giăng những đường đạn đỏ lừ, lốm đốm từng cụm khói trắng như bắn pháo hoa. Máy bay địch không bỏ bom vào khu vực ga được, quay sang đánh các trận địa phòng không của ta. Chúng phóng rốc-két xuống hai trận địa 12,7mm đóng ở đồng Trưa và Rầy Neo. Sau mấy loạt rốc két tiếng súng bỗng dưng bặt im mấy phút, sau đó bắn rời rạc, ngắt quãng. Linh tính báo bên khẩu 12,7mm của Lý “có vấn đề”.

Vừa ngớt tiếng máy bay, tôi lao lên chiến hào, chạy băng sang trận địa của Lý. Trời đã tảng sáng, con đường mòn đã rõ nhưng đất đá văng lên dồn thành đống lớn rất khó đi. Tôi cứ nhằm hướng mấy ụ đất cao mà chạy tới. Qua vị trí khẩu đội anh Việt, anh Thời, anh Đài đều thấy súng ghếch nòng lạnh băng không có người. Thì ra họ đang vây quanh khẩu đội của Lý. Thấy tôi chạy tới, anh Niêm vụt đứng dậy, dang hai tay ôm choàng lấy, nghẹn ngào:

- Lý… Lý hy sinh rồi!

Tôi đứng lặng. Mặt đất chao nghiêng. Hai đầu gối khuỵu xuống. Anh Diên an ủi:

- Lý dũng cảm lắm, bị thương hai lần vẫn không rời trận địa. O Lục o Hạ cũng bị thương nặng…

- Thế chuyển các o đi đâu rồi?

- Sang bên trạm xá làng Đông.

Tôi đu người qua khỏi công sự, chạy cắt đồng về phía cây bạch đàn cụt của làng Đông. Trong đầu tôi vang lên câu hỏi đau đáu: “Chúng giết em thật rồi sao?”. Tối hôm qua em còn gục vào lòng tôi, đồng ý cưới nhau, hẹn là chủ nhật này về thắp hương cho bố tôi, thưa chuyện với mẹ kia mà!

Nhìn vào sân trạm xá làng Đông tôi vẫn hy vọng: “Biết đâu em vẫn còn sống, vẫn còn chờ tôi”. Thế nhưng khi đến ngõ nghe thoảng mùi hương trầm, thì tôi biết em đã hy sinh thật rồi. Tôi như bị nâng lên khỏi mặt đất, người lao đao, trái tim đau nhoi nhói. Lý nằm hơi nghiêng trên tấm phản kê ở hè nhà, trên người phủ tấm dù trắng. Tôi ào tới, đưa tay kéo tấm dù xuống ngang cổ em, ngắm nhìn em trong đôi mắt đầy nước. Mắt em khép hờ, giống như những buổi sáng ngủ dậy muộn sau đêm thức trắng bên chiến nào. Tôi gục xuống ôm lấy em lần cuối cùng… để xa em mãi mãi.

Bây giờ ngọn lửa chiến tranh đã tắt. Những hố bom trên cánh đồng, xung quanh nhà ga Quán Hành đã được bồi lấp thành những thửa ruộng bốn mùa xanh tươi. Ngày ngày tôi đi qua ga Quán Hành, giờ đã là thị trấn giàu đẹp của huyện Nghi Lộc, lòng tôi lại nôn nao nhớ về bao kỷ niệm. Nhìn những đoàn tàu sình sịch, vun vút qua ga (họa hoằn lắm mới có tàu tránh nhau, dừng lại mươi lăm phút) tôi chạnh lòng nhớ đến một thời ga này là ga chính mịt mù đạn bom.

Xã Nghi Trung quê em cũng vừa được Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân. Tên của em cũng được khắc bằng chữ in hoa, nhũ vàng trên nền đá xanh cùng với 242 liệt sĩ trên đài tưởng niệm cao vời lộng gió.

HOÀNG CHỈNH