9 năm chống Pháp, bà làm Hội trưởng phụ nữ tỉnh và tiếp đó được bầu làm Hội trưởng phụ nữ Liên khu 5. Còn ông là Chính ủy Liên khu, đến năm 1951 được bầu vào Trung ương Đảng, Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5. Ông bà sinh thêm 3 con. Trách nhiệm nặng nề, bận trăm công ngàn việc ở tiền tuyến, năm lần sinh con đều không có mặt, muôn sự của gia đình ông đều cậy vào bà. Bà thấu hiểu mình hơn ai hết nghĩa vụ với đất nước và thiên chức của người mẹ, âm thầm chịu đựng và gánh vác mọi gian lao, vất vả, nhiều khi tưởng chừng không vượt qua nổi. Những năm 1930-1931, bà đã sớm rút ra kết luận: Phụ nữ là một lực lượng đấu tranh cách mạng rất mạnh mẽ và hiệu quả rất to lớn, phải giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. Nhận thức đó luôn thôi thúc bà cố gắng làm hết sức mình cho sự tiến bộ không ngừng của phụ nữ. Bà gửi 5 con cho mẹ và các cô, bác nuôi giúp. Những người ruột thịt đôi bên nội, ngoại đều nghèo khổ, túng thiếu nhưng ai cũng dành hết tình yêu thương đùm bọc các cháu. Nhờ đó, bà đã cùng chị em trong các Ban chấp hành sống chan hòa, vui vẻ, một lòng đoàn kết đẩy mạnh các phong trào phụ nữ xóa nạn mù chữ; hăng hái tăng gia sản xuất, tự túc; nuôi quân đánh thắng; xây dựng đời sống mới… Bà luôn gương mẫu thực hiện "Ba cùng" sâu sát cơ sở. Bà xuống các làng biển bị giặc Pháp càn quét đốt sạch nhà cửa, ghe thuyền, mành lưới để trực tiếp tham gia cứu đói. Bà lên các vùng sâu của huyện Nghĩa Hành để xây dựng vững mạnh các tổ chức cơ sở non yếu. Có thời gian, bà còn đảm nhiệm làm bí thư chi bộ xã, dám một mình đi công tác giữa trời khuya, băng qua Truông Ổi có nhiều thú dữ mà không ai dám một mình đi đêm qua đấy.
 |
|
Hồi ức về một thời “ngày ngủ, đêm đi tuyên truyền cách mạng khi còn là cán bộ Tỉnh ủy Quảng Ngãi của bà (người thứ hai, từ phải sang) và về mỗi khi trò chuyện cùng các cụ cùng trang lứa. |
Hễ có điều kiện là bà lội bộ cả chục, cả trăm cây số để thăm các con. Nhìn các con nheo nhóc, xanh xao, lòng bà như xát muối. Ngày ấy cầu Trường Xuân bắc qua sông Trà Khúc là mạch máu giao thông đường sắt duy nhất và quan trọng bậc nhất, máy bay địch tập trung bắn phá, thả bom nhiều lần trong một ngày, nhằm cắt đứt đường vận chuyển, tiếp tế của ta. Đi qua đó được gọi là "Đi qua cửa tử". Có một dạo, các con bà gửi nuôi ở nhà ông nội chỉ cách cầu một cây số. Vậy mà bà đã nắm thời cơ liều băng qua. Vừa đến nơi con ở, bom nổ ầm ầm phía sau. Không lo cho mình nhưng bà trào nước mắt khi thấy con gái Tuyết Minh đã đưa các em xuống hầm trú ẩn. Chừng như biết rõ vị trí của cha mẹ, hai anh em Tuyết Minh mới 13-14 tuổi đã biết bảo ban nhau học hành, làm thơ, trồng bắp, trồng khoai sắn, nuôi gà, nuôi lợn và thay cha mẹ chăm nom các em.
Gian khổ, thử thách nào bà cũng có thể vượt qua. Nhưng có một nỗi đau luôn vò xé trái tim bà không thể nào nguôi khuây. Đó là lần cơ quan ở cách xa chỗ các con hơn cả trăm cây số. Đang vào mùa chiến dịch, công việc bề bộn đêm ngày. Bà không về thăm con được. Cháu trai thứ năm của bà, từ chỗ bị viêm tai giữa dẫn đến tổn thương não, bị điếc và bị câm. Khi phát hiện ra thì đã qua muộn. Dù đã tìm đủ mọi cách nhưng vô phương cứu chữa. Bà luôn bị ám ảnh như mình thiếu trách nhiệm nên gây cho con nông nỗi này. Cậu con trai này suốt ngày quấn quýt và yêu quý bà ngoại nhất. Bà ngoại cũng yêu thương đứa cháu nhỏ bé bỏng, bất hạnh này nhất. Hôm bà ngoại sắp trút hơi thở cuối cùng, bà gắng đưa tay vuốt má hết các cháu. Đến lượt đứa cháu bị câm, bà đặt bàn tay lên đầu cháu. Bỗng từ hai hố mắt sâu của bà trào ra hai dòng nước mắt. Bà tắt thở và ra đi mà bàn tay vẫn nằm yên trên đầu cháu không chịu rời…
Hiệp nghị Giơ-ne-vơ được ký kết. Bà xin Khu ủy cho ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động. Bà đang mang bầu đứa thứ sáu. Xét tình thế và lợi hại nhiều mặt, Khu ủy quyết định bà phải đi tập kết ra Bắc. Không còn điều kiện và thời gian gặp những người ruột thịt, láng giềng thân thiết, làng quê và con sông Trà thân yêu, nước mắt bà chảy giàn giụa, chỉ kịp chia tay người thân quen lân cận, xuống tàu Kylinsky của Ba Lan rời cảng Quy Nhơn cuối tháng 11-1954. Từ sau đó, bà về công tác ở Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là Ủy viên thường trực ban phụ cận, Ủy viên Đảng đoàn và được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa II và III. Nửa nước nhà đã sạch bóng quân thù được sống tự do, nửa nước còn trong tay giặc chịu đời áp bức. Buồn vui đan xen lòng bà đêm ngày. Ôn lại chặng đường cũ để bước tiếp chặng đường hoàn toàn mới, bà tâm niệm sáu điều phục vụ dân và sáu điều sửa mình. Sáu điều đối với dân: Dân chủ-Dân sinh-Dân trí-Dân quyền-Dân an-Dân tín và sáu điều đối với mình: 1) Dĩ công vi thượng; 2) Có quyết tâm thì việc gì cũng làm được; 3) Phải có kiến thức thì mới làm tốt nhiệm vụ; 4) Phải hết sức gương mẫu và trong sáng; 5) Phải giải phóng và nâng tầm phụ nữ; 6) Phải dựa vào dân và đại đoàn kết mới thành công. Bà xem đó là bài học kinh nghiệm lịch sử đúc kết từ trường đời cách mạng đã qua của chính mình và phương châm sống trong cuộc chiến đấu mới.
Ở Thủ đô một tháng, một hôm dự giao ban nghe Nghệ An nạn đói ngày càng thêm trầm trọng, bà xin đi cứu đói, may ra có giúp được việc gì chăng? Đang mang bầu năm tháng, thuyết phục mãi, cuối cùng các chị lãnh đạo mới cho đi và giao cho bà làm trưởng đoàn. Đến xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc mới thấy hết tình hình thật khủng khiếp, phức tạp hơn nhiều so với bà tưởng. Dân xã Đoài đói đến 90%. Nhiều gia đình đói đến mức ăn rơm, đem lúa nép rang giã thành bột để ăn. Có những gia đình đói sắp chết cả nhà. Cả làng không tìm đâu ra một cọng rau má. Tàu há mồm của địch ngấp nghé ngoài bờ biển phát loa kêu gọi hỗ trợ cho bọn phản động tuyên truyền cưỡng ép đồng bào tôn giáo di cư vào Nam. Bà chưa gặp tình huống này bao giờ. Bà bàn với anh Tiếu, Bí thư huyện ủy, phó đoàn, các anh ở Bộ Thương binh-Xã hội, thành viên của đoàn, dùng ngay số gạo mang theo, cùng cán bộ chính quyền, đoàn thể địa phương vay mượn một ít thóc gạo của những gia đình còn lương thực, bảo đảm chính phủ sẽ hoàn trả, tỏa ra các gia đình, nấu cháo cứu ngay những người sắp chết đói. Chủ trương này được hưởng ứng và ủng hộ triệt để, nhờ đó không một ai bị chết đói. Cảnh đói khổ thường khiến con người trở nên ích kỷ. Ai cũng muốn được nhận gạo cứu trợ và nhận về mình nhiều hơn. Ngược lại, một số gia đình công giáo, tội nghiệp những cháu bé đói đã sùi bọt mép mà cha mẹ không nhận gạo cứu trợ, chờ lệnh của nhà thờ đưa con xuống tàu há mồm để di cư. Bà khai hội mấy đêm liền, đem lòng nhân ái của Bác Hồ nói chuyện với bà con phân tích sâu sắc âm mưu, thủ đoạn xảo trá của địch. Bà không ngờ cứ nói đến Bác Hồ là bà con tin yêu đến như vậy, kể cả những người đang bị địch lợi dụng, mê hoặc. Những gia đình còn thóc gạo đã mở bồ, mở hũ ra tương trợ cho những người sắp chết. Những gia đình còn bữa cháo, bữa rau cầm cự được, đã nhường phần cấp phát của mình cho những nhà đứt bữa. Tình trạng cưỡng ép di cư được đẩy lùi và chấm dứt. Đoàn chia nhau về Nghi Diên xuống các xóm tổ chức bà con tìm ngay những ruộng có điều kiện tốt nhất nhanh chóng trồng khoai lang, ngô và rau xanh để có cái ăn qua ngày. Bà đã ở lại nhà bác Han là chấp hành nông hội xã chỉ đạo thôn công giáo toàn tòng. Ông Han bán sạch đồ đạc không còn cái gì, bán cái nồi nhôm mua được hai bơ gạo. Vợ chồng ông và cô con gái sống nhờ vào suất gạo của bà nấu cháo với thân cây chuối. Ban đêm ông đi ngủ nhờ nhà khác để nhường cái ổ rơm cho bà và vợ con. Ba người đắp bằng chiếc chiếu rách và cái vỏ chăn đơn của bà được cấp phát ở Sầm Sơn. Chiều 30 Tết, bà nói với gia đình: “Hôm nay ta dũng cảm ăn một bữa cơm rồi ngày mai ta lại tiếp tục ăn cháo”. Mọi người đồng ý liền. Bữa cơm chiều 30 Tết ấy, bát canh chuối non có thêm mấy con cá dầu, lại có thêm 2 đòn bánh tét giả nấu bằng sắn. Vậy mà cả nhà vui sướng cảm thấy đậm đà ra phết. Chấy và rận từ những chiếc áo vá chằng vá đụp của hai mẹ con bà Han lây qua bà, rận chui vào áo len của bà, bụng đỏ máu. Bệnh phù thũng, ỉa chảy, kiết lỵ lan rộng. Đoàn lại làm thêm nhiệm vụ phòng bệnh, chữa bệnh. Sau 4 tháng trời vật lộn với tình hình thật phức tạp, vật vả, Nghi Diên thoát khỏi nạn đói, dịch bệnh. Màu xanh đã trở lại với ruộng đồng, vườn tược. Buổi chia tay, không ai bảo ai mà cán bộ, đồng bào lương giáo kéo đến rất đông, có người vừa khóc vừa nói: “Nếu không có Đoàn về đây thì bà con chúng tôi chết đói, chết bệnh nhiều lắm!”. Ai cũng lưu luyến, cảm động không cầm được nước mắt…
Về đến thủ đô, bà xin được báo cáo ngay tình hình với lãnh đạo và đúng năm ngày sau bà vào bệnh viện sinh cậu út. Ngày bà sinh con, ông không có mặt. Ông làm Phó Tổng tham mưu trưởng được cử trở lại Liên khu 5 chỉ đạo việc tập kết quân ra Bắc. Bà vừa công tác, vừa sắp xếp việc gia đình, vừa tranh thủ học chương trình trung học phổ thông “Một năm ba lớp” của Trường Bổ túc công nông Trung ương. Sau cuộc cải cách ruộng đất, Bác Hồ và Trung ương Đảng quyết định huy động các đồng chí có trình độ trong tỉnh ủy đi sửa chữa triệt để những sai lầm đã xảy ra. Bà xin đi và được cơ quan đồng ý. Cậu út đã biết chạy, biết nói và có ông ở nhà, nên bà yên tâm. Đoàn của bà về Hà Nam và được phân công về huyện Lý Nhân. Bà được bổ sung vào huyện ủy và làm cụm trưởng một cụm. Cụm này có nhiều bà con công giáo, nên việc sửa sai vốn đã rất phức tạp, lại càng thêm khó khăn mà bà thì không trực tiếp tham gia cải cách ruộng đất. Bà thấy không cách nào tốt hơn là dựa hẳn vào cán bộ địa phương và nhân dân, lắng nghe thật kỹ lưỡng ý kiến và nguyện vọng của dân, giải quyết chính sách đền bù phải được sự đồng thuận vui vẻ của đông đảo mọi người. Với lời giải hiệu nghiệm đó, bài toán “Lấy gần bù xa, lấy tốt bù xấu”, “Rút phần này bỏ qua phần khác”, “Xáo trộn cả cái cũ và cái mới để xây nên một phương án không ảnh hưởng dây chuyền toàn bộ ruộng đất của thôn, xã”, “Đem lại công bằng và phục hồi danh dự cho người bị oan sai”, “Đồng bào lương giáo sống đoàn kết”, “Mang lại uy tín và sự vững mạnh cho chính quyền cơ sở”… đã có được một đáp số đúng đắn, hợp tình hợp lý, vui lòng mọi người. Sau 6 tháng “Ba cùng” đầy khó khăn, gian khổ trong công cuộc sửa sai, có điện của Trung ương triệu tập bà về đi học khóa 1 trường Nguyễn Ái Quốc. Chia tay anh em về trước, bà càng thấm thía và cảm phục con người ở vùng chiêm trũng: 200 cán bộ sửa sai của huyện mà ăn uống, tắm gội trong cái ao rộng độ một sào, hằng tuần phải đổ vôi bột xuống để khử mùi hôi thối và làm chìm những váng bọt đóng dày cộp trên mặt nước. Mùa mưa lũ, tất cả cán bộ nhân viên đều mang lều bạt, cơm gạo, con dấu lên đê trực lụt và làm việc suốt ngày đêm. Nhà này đi qua nhà khác phải dùng thuyền, bè. Người chết chôn ở chân đê. Nhân dân ăn uống bằng nước lụt có lẫn phân người và xác súc vật chết. Bà thầm mong nơi đây có một ngày về thăm sẽ là một nông thôn mới tốt đẹp như lòng mình hằng mơ ước.
(còn nữa)
Hồ Ngọc Sơn
Chuyện một cô gái sông Trà (Kỳ 2)
Chuyện một cô gái sông Trà (Kỳ 1)