Thượng úy Nguyễn Văn Tư, Thuyền trưởng tàu HQ851

Người chiến sĩ Hải quân da sạm màu nắng gió với những chuyến đi biển dài ngày bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng có những ước muốn bé nhỏ, những phút chạnh lòng... Song đó lại là những điều rất thực, rất con người, bồi đắp nhân cách người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.

Những ngày đầu năm này, không khí trên Quân cảng Đà Nẵng khá tưng bừng, tiếng búa, tiếng máy rền vang hòa cùng sóng biển rì rào. Những con tàu san sát đậu kề nhau trong tư thế sẵn sàng xuất kích.

Đại tá Vũ Đình Hiểu, Phó chỉ huy trưởng Vùng C Hải quân, nguyên là Đoàn trưởng Đoàn M61 cho biết: Tết vừa qua, ngoài những giờ trực ở Sở chỉ huy, anh dành phần lớn thời gian về với “mái nhà xưa”, con tàu HQ851 mà anh một thời gắn bó, một thời cùng đồng đội “cắm chốt” ở vùng “biển động”. Anh tâm sự rất thật rằng, nhận nhiệm vụ đối mặt với sự hy sinh, cái lo của người chỉ huy không phải là sự ác liệt của các tình huống có thể xảy ra, mà chính là làm sao để tâm thế người chiến sĩ, khi giáp mặt với tình huống, dù có phải hy sinh, cũng phải thể hiện được bản lĩnh, sự vững vàng. Anh kể: “Cuối tháng 1-1988, lúc đó tôi là Thuyền phó tàu HQ851, được lệnh rời bến vào dịp giáp Tết để đi làm nhiệm vụ. Trên tàu đại đa số là chiến sĩ mới. Những khuôn mặt măng tơ thẫn thờ khi tàu rời cảng, nhiều khóe mắt đỏ hoe. Cũng đúng thôi, họ là những thanh niên mới lớn, chưa được một tuổi quân, lần đầu xa nhà, lại đón Xuân trên biển mịt mùng sóng gió, ai mà không bịn rịn, bâng khuâng, nhớ nhung. Cứ tưởng như vậy, tư tưởng bộ đội sẽ diễn biến phức tạp lắm, cấp ủy, ban chỉ huy tàu phân công nhau gần gũi với anh em. Tôi nhớ, ngày ấy để vào được đảo, đâu đã có được cầu cảng như bây giờ, tàu phải neo rất xa. Bộ đội vào đảo bằng xuồng cao su và bơi bộ, mà đâu có vào được ban ngày. Các anh cứ nghĩ, đêm tháng chạp, giữa biển khơi mịt mùng như vậy, thế mà không đồng chí nào thoái thác nhiệm vụ. Những ngày giữ đảo là những ngày gian khổ cam go, bữa đói, bữa no, vậy mà bộ đội không một lời phàn nàn. Mới đó mà đã tròn 20 năm... Trong đội ngũ ngày ấy, người còn tại ngũ, người đã phục viên, chuyển ngành. Riêng tàu HQ851 đã qua nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ, song, vẫn giữ vững truyền thống đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bề dày thành tích của tàu được lớp lớp cán bộ, chiến sĩ viết nên bằng những việc làm bình dị...”.

Chúng tôi cùng Thượng tá Phan Quốc Tuấn, Chủ nhiệm chính trị Đoàn M61 xuống Hải đội B11. Vừa đến đơn vị thì gặp hai người đàn ông, một già, một trẻ, có vẻ là hai bố con. Tiếng ông lão oang oang: “Cha con tui đến thăm các chú bộ đội hải quân. Nếu không có các chú cứu giúp thì tui đâu còn sống đến ngày hôm nay”. Chủ và khách nhận ra nhau, có những nụ cười và cả những giọt nước mắt cảm động rơi trong ngày gặp mặt.

... Đã hơn hai năm trôi qua, nhưng ông Nguyễn Ngọc Thâm, Thuyền trưởng tàu QN 90127 (trú ở xã Bình Minh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) không thể nào quên được cái ngày đầy hãi hùng ấy… Đầu tháng 1-2007, do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, vùng biển miền Trung có bão lớn, sóng gió cấp 6, cấp 7 đã nhấn chìm nhiều tàu bè của ngư dân trên biển. Đang vật lộn với bão tố, thì tàu bị hỏng chân vịt. Vậy là số phận con tàu và các thuyền viên phó mặc cho biển cả. Mọi người trân trân nhìn nhau, rồi đồng loạt gào thét, tiếng kêu cứu chìm dần trong tuyệt vọng... Tỉnh lại ông Thâm thấy mình đang nằm trên tàu, chung quanh là những gương mặt bộ đội hải quân. Sau này đồng nghiệp kể lại, khi ông và mấy thuyền viên bị sóng hất tung xuống biển thì vừa lúc tàu HQ629 ra tới nơi. Không đợi tàu dừng hẳn, các chiến sĩ hải quân đã thả phao cứu sinh và nhảy xuống biển cấp cứu kịp thời. Sau 3 giờ đồng hồ “đánh vật” với biển cả, cán bộ, chiến sĩ tàu HQ629 đã cứu, kéo được 2 tàu cá cùng 58 ngư dân về đất liền. Người trực tiếp nhảy xuống biển cứu ông hôm đó là Thượng úy, máy trưởng Nguyễn Tường Vân… Trước đó, vào năm 2006, trong đợt bão Chan Chu, Đoàn M61 cũng đã điều tàu HQ628 và HQ629 thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn ngư dân trên vùng biển quốc tế, khu vực Đông Bắc quần đảo Hoàng Sa. 15 ngày bám biển, quần đảo dọc ngang trên các vùng biển xa, hai tàu HQ628 và HQ629 đã tiếp tế lương thực, thực phẩm, nước ngọt, thuốc chữa bệnh và nhiên liệu cho hàng chục tàu cá của ngư dân các tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng; kịp thời đưa 34 người bị kiệt sức và 4 thi thể nạn nhân về đất liền.

Những năm gần đây, cùng với nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải, Đoàn M61 còn là lực lượng chủ lực tìm kiếm, cứu nạn trên biển ở khu vực miền Trung. Nhiều chuyến tàu phải hành trình trong điều kiện mưa to, gió lớn; nhiều chuyến phải rời bến trong đêm. Cán bộ, chiến sĩ gọi đây là cuộc chiến đấu giữa thời bình. Những người lính biển âm thầm rời bến lúc giông tố. Họ lặng lẽ xếp hành trang từ biệt vợ con đúng thời khắc giao thừa để nhổ neo đi làm nhiệm vụ. Có trường hợp cô giáo trẻ, cuối năm sấp ngửa nhảy từng chặng xe từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Đà Nẵng thăm chồng. Hai bên nội ngoại mong sau chuyến đi, vợ chồng có cháu cho các cụ đỡ buồn. Mới ở với nhau được một ngày, nhận lệnh, người chồng phải lên tàu ra khơi. Người vợ đành ở lại ăn Tết cùng đơn vị, sớm mồng hai Tết lại phải ra tàu để về tiếp tục sự nghiệp “trồng người”...

Tại Sở chỉ huy Đoàn M61, Đại tá Đoàn trưởng Đặng Minh Thắng, đi đi, lại lại, nét mặt đăm chiêu. Nghe đài báo khu vực biển miền Trung có bão, nửa ngày nay anh nóng lòng chờ tin từ tàu HQ629 đang thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu dài ngày trên biển. Đại tá, Chính ủy Tô Đình Ngoạn vẻ bồn chồn, đứng ngồi không yên…

Chiến sĩ trẻ Đoàn M61 hôm nay

Tiếng chuông điện thoại đổ dồn, Đại tá Đặng Minh Thắng vội vàng nhấc tổ hợp. Chúng tôi thấy nét mặt anh phấn khởi, nụ cười trở lại trên môi: “Tình hình khu vực Đông Bắc Lý Sơn biển động, nhưng tất cả cán bộ, chiến sĩ trên tàu đều mạnh khỏe. Sự cố mất liên lạc vừa qua là do máy bộ đàm bị hỏng”. Chúng tôi đề nghị anh Thắng được nói chuyện với anh em trên tàu. Chúng tôi vội nói nhanh vào tổ hợp: “Xin chào cán bộ, chiến sĩ tàu HQ629. Biển động, chắc các anh vất vả lắm?”. Tiếng thuyền trưởng Lê Văn Hưng rành rọt: “Báo cáo các anh! Ngoài này sóng to, gió lớn, nhưng cán bộ, chiến sĩ đều khỏe. Nhờ các anh nói với đất liền hãy yên tâm. Anh em chúng tôi luôn xác định, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao”.

Chúng tôi biết dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, người chiến sĩ giữ biển đều sẵn sàng vượt lên khó khăn gian khổ và mất mát, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Tết Kỷ Sửu, nhiều mái nhà của những người lính biển vắng bóng người con, người cha, người chồng. Nhìn dòng người nô nức vào các trung tâm mua sắm tết, đón xuân; nhìn những cặp vợ chồng, con cái trên cùng chiếc hon-đa rong ruổi dạo phố phường, có người vợ trẻ của lính biển len lén lau nước mắt. Nhưng chỉ một thoáng thôi, gạt đi nỗi buồn thầm kín, người vợ ấy lại tất bật với công việc đời thường, thay chồng mua chậu hoa về trang trí Tết, thay chồng sắp đặt bàn thờ tổ tiên và sửa soạn mâm cỗ cúng giao thừa... Một mùa xuân bình yên đã đến với mọi người, mọi nhà. Không chỉ riêng các anh phải chống chọi với bão giông ngoài khơi xa, mà cả hậu phương của họ cũng âm thầm hy sinh những ước mơ nhỏ nhoi nhất. Thượng úy Nguyễn Tường Vân có vợ dạy học ở quê. Hằng ngày, chị gửi con nhỏ cho ông bà nội, đạp xe hơn chục cây số để bám trường, bám lớp. Ngày đêm chị mong ngóng cuối năm chồng về để lợp lại mái nhà bị dột sau trận bão vừa qua. Trung sĩ Nguyễn Văn Tùng, quê ở Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hóa, Tết vừa rồi chuẩn bị về làm lễ dạm ngõ… và rất nhiều hoàn cảnh tương tự, vẫn phải gác lại việc riêng để lên đường làm nhiệm vụ chung...

Tiếng còi tàu từ hướng quân cảng dõng dạc vang lên từng hồi: Báo động luyện tập chuẩn bị chiến đấu, chuẩn bị đi biển. Lẫn trong tiếng sóng, tiếng máy, tiếng khẩu lệnh từ trên các đài chỉ huy, chúng tôi như nghe được tiếng mùa Xuân nơi biển xa đang vọng về. Khúc tráng ca mùa Xuân trên biển, được viết bằng những điều bình dị thiêng liêng như vậy. Ngoài khơi xa trập trùng sóng vỗ, luôn có những cặp mắt không một phút lơi là mất cảnh giác để giữ sự bình yên cho biển trời, đất nước mùa xuân.

Bài và ảnh: TRUNG HỘI-TIẾN DŨNG