QĐND Online - Là con trai duy nhất trong gia đình, cha là Cục trưởng Cục Trinh sát của Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng). Nhưng tháng 4-1971, anh “trốn” gia đình, ghi tên tình nguyện nhập ngũ vào Tiểu đoàn 12 Thanh Xuyên. Một năm sau, để lại một phần cơ thể trên đất bạn, nhưng ngay khi vết thương tạm ổn, anh “trốn” viện về đơn vị, tiếp tục những ngày tháng luồn rừng tiễu phỉ.
Cho lý tưởng của tuổi trẻ
 |
Binh nhì Lê Đình Hoài khi mới nhập ngũ |
Tôi gặp Đại tá Lê Đình Hoài, Phó trưởng phòng trinh sát tuyến Việt Nam – Cam-pu-chia vào những ngày chuẩn bị kỷ niệm thành lập Cục Trinh sát, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP). Anh bảo, anh là người “có duyên” với “kẻ thù đặc biệt”, đó là giặc phỉ ở biên giới Việt – Lào; Fulro ở biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia. Những kỷ niệm về một thời tiễu phỉ lại ùa về trong anh như mới xảy ra ngày hôm qua. Tháng 5-1972, trong một lần truy kích, bắt được một tên trùm phỉ, anh dẫn giải về tới điểm tập kết nhưng xung quanh không có ai. Trong khi đó, vợ con của tên trùm phỉ thi nhau nhào vào giằng tên trùm phỉ khỏi tay anh. Không còn cách nào khác, anh liền… vác tên phỉ lên vai chạy thẳng vào rừng. Cũng không hiểu nổi sức mạnh nào đã khiến chàng trai 19 tuổi lại có thể vác tên phỉ nặng không dưới 60kg, chưa kể 20kg tiêu chuẩn của mình trong ba lô, rồi súng AK khoác trên vai. Sau ba ngày tiếp tục truy kích, trên đường về tổ của anh bị phục kích. Hai người hi sinh, một người bị thương nhẹ còn anh bị mảnh đạn găm đầy người, ngất lịm. Anh được bó chặt vào một chiếc màn, một chiếc chăn, cả người khiêng và người được khiêng đều không biết anh còn sống hay đã chết. 14 ngày băng rừng, vượt dốc cuối cùng, dân công hoả tuyến cũng đưa anh về tới Viện 4 tại Nghệ An. Thế nhưng, sau một tháng điều trị, chàng thanh niên thấy vết thương tạm ổn liền “trốn” viện, đi bộ 4 ngày về đơn vị, tiếp tục sát cánh bên đồng đội. Một thời gian sau, anh ra Bắc học Trường Sĩ quan Công an nhân dân vũ trang. Khi biết mình có tên trong danh sách học viên Khoa Sĩ quan cửa khẩu, anh một mực đề nghị: “Nhất định tôi phải học trinh sát”. Tốt nghiệp, được giữ lại làm giảng viên nhưng một lần nữa anh kiên quyết và tình nguyện lên đường vào Nam. Đó là thời gian biên giới Tây Nam đang nổi lên nhiều điểm nóng do giặc Pôn Pốt gây ra.
Những trận đánh thời bình
Trong những chuyên án, kế hoạch được Phòng trinh sát Việt Nam – Cam-pu-chia xác lập và phá án, gần như chuyên án nào cũng có tên Lê Đình Hoài. Từ chuyên án K793 năm 1993 về “Truy tìm vũ khí do lực lượng phản động Pôn Pốt chôn cất ở địa bàn Tây Ninh và An Giang” tới gần đây nhất là Chuyên án V906 năm 2005 về “Chống vượt biên của đồng bào dân tộc thiểu số qua các tỉnh Tây Nam Bộ”, chưa kể những chuyên án đang trong thời kỳ bí mật. Nhiều câu chuyện được kể lại cũng chính là nỗi niềm tâm sự của anh. Năm 2004, khi còn ở Đắc Nông, anh đã cùng đơn vị xác lập Chuyên án N05 về “Chống hoạt động Fulro ngầm trên địa bàn xã Thuận An, xã Đắc Bút So và xã Quảng Trực”. Cán bộ xã Quảng Trực khẳng định: “100% người dân Quảng Trực không có ai tham gia hoạt hoạt động Fulro” nhưng qua điều tra, lực lượng đánh án phát hiện “có địch”. Chính quyền đề xuất bắt các đối tượng nhưng anh quyết định chọn đấu tranh chính trị. Anh cùng cán bộ, chiến sĩ của mình đến từng nhà “rì rầm to nhỏ”. Kết quả, 10 người tự khai báo đã hoạt động cho tổ chức Fulro. Tuy lần ấy “tuột” mất danh hiệu Anh hùng (xã Quảng Trực đang được xây dựng danh hiệu Anh hùng) nhưng cán bộ xã vẫn cảm ơn anh lắm vì “địa bàn phải thực sự trong sạch mới xứng đáng là Anh hùng”.
 |
Bất cứ lúc nào có thời gian, đại tá Lê Đình Hoài lại nghiên cứu các hồ sơ chuyên án để rút kinh nghiệm |
Trong Chuyên án B905 xác lập năm 2005 về “Chống vượt biên của người dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên”, các anh đã kiên trì đấu tranh, bóc gỡ mạng lưới các đối tượng hoạt động ngầm cho FULRO trên địa bàn, chuyên lừa gạt đồng bào vượt biên trái phép. Chuyên án được đánh giá đã “chặt đứt khúc” không cho đầu nối với đuôi rắn. Có những câu chuyện xảy ra ngoài dự kiến của chuyên án khiến anh, một người lính được tôi luyện trong chiến tranh cũng không khỏi xót xa. Trong một lần phối hợp với lực lượng của Cam-pu-chia tìm kiếm đồng bào dân tộc thiểu số vượt biên trái phép đang lẩn trốn trong rừng, các anh phát hiện một phụ nữ trốn sau một gốc cây to. Khi dẫn giải về, người phụ nữ ấy lăn ra đất gào thét. Hỏi chuyện, các anh mới biết người phụ nữ còn hai đứa con 5 tuổi và 14 tuổi vẫn bị lạc trong rừng. Anh đã vận động người phụ nữ về trước, mình sẽ triển khai người đi tìm 2 đứa trẻ. Gần nửa ngày sau, các anh tìm thấy đứa bé 5 tuổi đang nằm đói lả trong bụi cây, kiến bâu đầy người. Đứa bé đã bị đói 3 ngày vội ăn lấy ăn để bát mì tôm các anh vội nấu. Người phụ nữ nhìn con ăn mà nước mắt giàn giụa. Ba ngày sau, đứa con trai 14 tuổi cũng được các anh tìm thấy cho chị. Ba mẹ con ôm nhau khóc tức tưởi vì “cuộc sống sung sướng” như bọn xấu hứa hẹn không thấy đâu, mà suýt chút nữa mẹ con mất nhau. Kể tới đây, giọng Đại tá Lê Đình Hoài bỗng phấn chấn: “Sau lần đó, người phụ nữ ấy trở thành một trong những người tích cực vận động bà con không nghe lời kẻ xấu vượt biên trái phép. Chị là một “cơ sở tin cậy” cho Bộ đội Biên phòng trong phát hiện sớm các cuộc vượt biên trái phép và tố giác kẻ xấu”.
Đại tá Hoài còn có nỗi niềm riêng với những đồng đội một thời cùng nhau vượt gian khổ để có chuyên án thắng lợi. Đó là nỗi niềm về gia cảnh trinh sát viên Nguyễn Văn Dối, Bộ đội biên phòng Đắc Nông. Là một trinh sát giỏi lại thông thuộc địa bàn, thạo tiếng đồng bào nên anh Dối là “người không thể thiếu mỗi lần hành quân”. Trong khi đó, vợ anh lại bị bệnh tim, cứ 3 tháng một lần, phải gửi đứa con nhỏ cho ông bà ngoại, một mình theo xe về TP Hồ Chí Minh điều trị. Đồng lương vốn eo hẹp, vợ ốm đau thường xuyên nên gia đình anh lại càng khó khăn. Tuy nhiên chưa một lần Nguyễn Văn Dối có ý định từ bỏ công việc mình đang theo đuổi. Biết hoàn cảnh của đồng đội nhưng ông cũng không biết làm gì hơn ngoài động viên cấp dưới và những lúc nào có thể lại “cắt phép đặc biệt” cho đồng đội về thăm nhà.
Bài, ảnh: Trúc Hà