QĐND Online - Vẫn biết giáo dục ở vùng cao là nhọc nhằn, các thầy, các cô giáo ở đó là vất vả nhưng những gì tôi chứng kiến ở bản Pa Thoóng (xã Bum Tở - Mường Tè, Lai Châu) mới biết vẫn còn nhiều nơi các thầy cô còn phải sống và làm việc trong điều kiện khó khăn. Mỗi thầy, cô có một hoàn cảnh, một quê hương nhưng lên đây họ cùng chung một mơ ước là mong một ngày “con chữ Bác Hồ” làm sáng dạ con em người La Hủ ở đây. Pa Thoóng dù chỉ cách thị trấn huyện một tầm tiếng gọi nhưng vẫn u tối mịt mù.

Ngược ngàn tìm người dạy chữ

Tại trường Tiểu học Bum Tở I, khi được hỏi về những nơi khó khăn nhất của trường, chẳng mất một giây suy nghĩ, thầy hiệu trưởng Hà Văn Nhuận: “Pa Thoóng đấy! Khổ nhất là Pa Thoóng. Nếu đi từ trường đến bản phải mất 6 giờ luồn rừng, còn nếu đi bộ từ trung tâm huyện lên cũng phải mất 2 giờ đi liên tục nhưng đường vào đó vách núi dựng đứng”. Tưởng anh Nhuận cường điệu hóa sự khó khăn của trường mình nhưng ở thị trấn huyện nhìn lên mấy nếp nhà lúp xúp trên sườn núi chúng tôi mới thấy ơn ớn khi nghĩ tới đoạn đường lên đó.

Lên Pa Thoóng đường phải luồn rừng với toàn dốc ngược, dốc ngược và… ngược dốc. Con đường sơn tràng này ngay đến ngựa đi cũng khó. Hành trang ngược ngàn của chúng tôi là mỗi người một nón lá, một chai nước mấy túi bánh kẹo (làm quà cho các em học sinh) buộc ngang hông và một cây gậy tự thửa dọc đường. Dù rằng chân phóng viên miền núi đã rất quen với đèo dốc nhưng ngược dốc Pa Thoóng chúng tôi vẫn phải nghỉ không dưới 15 lần. Nắng Mường Tè những ngày cuối thu như hờn, như dỗi cố mang nốt nhiệt lượng còn lại của cả mùa hè đổ xuống đất này trước khi lưu luyến nhường phần cho mùa đông lạnh giá ngự trị khiến những trảng rừng, cỏ cây hanh hao vàng rực còn chúng tôi như được ngâm mình trong mồ hôi. Mồ hôi đầm đìa, rịn xuống trán, chảy vào mắt mặn đắng, cay xè. Đôi bắp chân muốn vỡ bung ra từng thớ thịt vì liên tục phải kéo đầu gối ngang ngực mà leo lên rồi lại lên nữa. Chiếc gậy sặt khô chống chịu với đất rắn và một phần sức nặng cơ thể đã vỡ toét cả đầu, nhơm nhớp mồ hôi, trơn truội trong lòng bàn tay. Thở! Thở phì phò! Mồm mũi tranh nhau thở còn mồ thôi thì cứ rỏ tong tong xuống nền đất chai cứng. Đã nhiều lần ngẩng mặt nhìn lên mái dốc ngược mà chúng tôi toan bỏ cuộc. Nhưng hình ảnh các cô giáo miền xuôi vẫn hàng ngày, hàng tuần ngược con đường này, gùi chữ, gùi ánh sáng lên đỉnh non cao để thắp lên những ngọn đèn tri thức, vén đi mây mù tăm tối ngàn đời nay trùm kín đất này đã cho chúng tôi thêm nghị lực vượt dốc.

Người rừng… biết chữ

Sau gần 3 giờ đồng hồ ngược dốc dưới cái nắng như dội lửa của đất này, hai chai nước mang theo đã khô đến giọt cuối cùng, tất cả đã biến thành mồ hôi thấm ướt hết cả áo quần. Mỗi khi đến những vạt cỏ, tán cây chúng tôi lại phải tranh thủ nghỉ tạm lấy sức rồi tiếp tục tay bám, chân bò ngược dốc.

Sau gần 3 giờ bợt bạt với dốc đứng, chúng tôi đã lên tới điểm trường Pa Thoóng. Cả hai cùng cười vang như những đứa trẻ khi thấy mẹ đi chợ về! Tiếng cười đánh động lũ chim trong rừng cũng làm cho bầy trẻ đang chơi trong bản ngơ ngác. Chắc đã từ lâu lắm Pa Thoóng mới có người lạ lên thăm.

Điểm trường Pa Thoóng

Nếu không có tiếng trẻ ê a đọc bài chúng tôi chẳng thể phân biệt được trường học với nhà dân bởi chúng đều có một điểm chung đó là sự tồi tàn, xập xệ. Từ điểm trường, một thanh niên bước ra, dáng người nhỏ thó, gầy gầy, mái tóc dài trùm kín trán, giọng nói nhẹ nhẹ, thỉnh thoảng lại nói lẫn một vài từ tiếng người dân tộc La Hủ. Qua cách ăn nói, cử chỉ chúng tôi đoán anh là thầy giáo người La Hủ. Khi hỏi họ tên mới biết rằng cái anh chàng trông giống trưởng bản này hóa ra lại có cái tên hay như một ca sĩ: Hà Chí Tuấn. Tuấn sinh năm 1982, là người Phú Thọ, rời giảng đường Cao đẳng Công nghiệp (nay là Đại Học Công nghiệp Hà Nội), với sự thông minh, có năng lực, nhiệt tình Tuấn trúng tuyển vào Công ty cổ phần Giáo dục Việt Nam, sau đó chuyển sang phụ trách mảng công nghệ thông tin của một công ty cổ phần khác. Với nhiều người có lẽ ước mơ nhà cao cửa rộng, thu nhập cao, được làm việc tại Hà Nội như vậy là đã đạt được, nhưng với Tuấn đó chỉ là quãng thời gian hao phí vô ích.

Vẫn với cái giọng đặc sệt thổ âm người La Hủ, Tuấn tâm sự: “Mình còn trẻ mà, muốn cống hiến, cũng muốn thử sức chịu đựng gian khổ của mình đến đâu”. Thủ đô phồn hoa đôi hội, thu nhập bình thường cũng hơn đứt mấy ông cán bộ nhàng nhàng ở xã. Này nữa, cả cô người yêu đẹp như mộng, đã từng chỉ non thề biển với nhau 7 năm cũng vẫn không thể níu đôi chân đầy ước mơ, tâm huyết và sự mong mỏi được cống hiến cho Tổ quốc của Tuấn. Đi học nghiệp vụ sự phạm rồi xin lên Mường Tè công tác, Tuấn đã xác định bỏ lại tất cả. Có người bảo anh bị hâm, người lại bảo có khi nó thất tình, nghe đâu lại có người bảo rằng anh có người thân làm “quan to” trên này, lên để sau này làm lãnh đạo… Có cả ngàn lẻ lý do để người ta bàn tán xung quanh cái quyết định bỏ phố ngược ngàn của anh.

Ngày đầu lên đây cũng bỡ ngỡ đủ điều, từ những thói quen ăn ở sinh hoạt tới công việc Tuấn phải làm quen dần dần, bởi so với Thủ đô, nơi này còn cách cả mấy thế kỷ phát triển. Khổ lâu thành quen, ở nhiều với dân bản, học sinh, Tuấn nhiễm dần phong cách của họ.

- Ngày đầu lên đây (năm 2006) tôi được giao dạy các em học sinh lớp 3. So với dưới xuôi các em trên này thiệt thòi hơn nên nhận thức, học lực không cao nên công việc rất vất vả. Tôi phải học tiếng của dân để có thể nói cho họ nghe và nghe họ nói mới mong vận động được các em đến lớp vì học sinh vùng đặc biệt khó khăn chắc chẳng nói cũng biết rồi – Tuấn kể. Có những hôm chỉ một mình ở lại bám bản, buổi tối đỉnh núi quạnh quẽ đến ghê người, nhớ nhà, nhớ người yêu, thèm nghe một giọng nói của con gái miền xuôi mà không được. Khi ấy Tuấn lại đốt đèn, đến gõ cửa hết 17 hộ dân trong bản để vận động học sinh ra lớp mà dạy nâng cao kiến thức cho các em, để học tiếng của các em và để vơi đi nỗi cô đơn. Hai năm sống cùng bà con, thầy giáo Tuấn từ lúc nào đã là một thành viên của bản với đủ mọi tư chất bản địa. Vào bản chào nhau bằng tiếng La Hủ, lên trường họp giao ban quen miệng cũng chào như vậy thế là cái biệt danh vui “Tuấn người rừng” được anh em đồng nghiệp “phong tặng” từ lúc nào rồi gọi riết thành quen. “Mình là người rừng cũng chẳng sao nếu tất cả học sinh ở bản này đọc thông viết thạo, biết ước mơ và biết cách đạt được ước mơ thì mình quá yên tâm rồi” – Tuấn cười.

Bám cột để… bám bản

Tại điểm trường Pa Thoóng năm nay đã có thêm 3 cô giáo nữa gia nhập “đội quân người rừng” cùng với thầy giáo Hà Chí Tuấn. Họ cũng là những người mang theo tâm huyết, sự nhiệt tình lên đây bám bản dạy học. Hình như Pa Thoóng là nơi để thử thách bầu máu nóng của họ khi buộc họ phải đối mặt với vô vàn khó khăn.

Giờ lên lớp của cô giáo Bùi Thị Thúy

Chỗ ở hiện tại của cả 5 thầy, cô giáo chỉ là một gian nhà tranh lụp xụp, mùa đông thì gió lùa bốn phía, còn mùa hè thì nắng xuyên tứ bề, nếu không có mấy tấm bạt căng dưới mái nhà chắc chắn ngày nào các thầy cô ở đây cũng được ở trong “khách sạn ngàn sao”. Ba chiếc giường cũng thật thảm hại, chúng được làm bằng những thân cây luồng dập, gép lại thành tấm phên, lún võng xuống mỗi khi có người ngồi lên. Ở đây các thầy cô gọi nó là đệm vạn năng do thiên nhiên ban tặng. Mấy cái chân giường làm bằng chạc cây rừng chôn xuống đất lâu ngày nay đã mọc cả mầm.

Nơi ở đã khó, những điều kiện tối thiểu cho sinh hoạt cũng rất thiếu thốn. Khi chúng tôi đến, lớp 2 của cô giáo Bùi Thị Thúy đang tập đánh vần từ bóng điện. Những từ như cái cầy, con dao… thì các cô chỉ cần dạy một lần nhưng khi dạy đến từ này các cô Thúy lại phải thêm phần chú thích: “Bản ta chưa có điện, các con cứ học đi sau này xuống thị trấn sẽ biết cái bóng điện”. Nơi này sóng điện thoại di động rất ổn định nên mỗi thầy cô đều có điện thoại để liên lạc cho vơi đi nỗi nhớ nhà, nhưng bí nhất là khoản sạc pin. Mỗi tuần các cô cử một người xuống thị trấn mùa đồ ăn dự trữ cả tuần rồi tranh thủ mang tất cả điện thoại xuống sạc pin luôn thể.

Khó nhất có lẽ là nước sinh hoạt. Nơi gần nhất có thể lấy nước cũng cách điểm trường gần 2km đường rừng. Cô Thúy kể: “Hàng sáng chị em chúng tôi mỗi người 2 chiếc can 5 lít đi lấy nước. Ngày đầu chẳng quen hai chân, hai tay cứ như muốn rời ra. Đành động viên nhau coi như tập thể dục buổi sáng. Nhưng đi xa, leo dốc mãi cũng quen chỉ có cái “anh vắt” là không thể quen được. Sao ở đây nhiều vắt thế! Có hôm trời mưa, vắt bò nhung nhúc cả trên xà nhà. Cô giáo Nông Thị Hiệp, quê Lạng Sơn còn bị vắt cắn bê bết máu trên đỉnh đầu!”.

Ở đây, mỗi năm các thầy cô lại khánh thành một ngôi trường mới. Chẳng phải chơi sang nhưng đó là sự thật. Tháng 3, 4 hàng năm là thời điểm gió lốc quật như bão giật, dù phòng ốc, nhà cửa đã làm rất thấp cũng vẫn bị gió bóc mái, nhổ cột. Cứ sau mỗi mùa lốc các thầy cô ở đây lại phải cùng nhau đi tìm những tấm tranh, tôn bay lả tả khắp nơi để dựng lại nhà. Thầy Tuấn kể: “Năm ngoái, khi đoàn kiểm tra của trường lên thăm đúng lúc gặp con lốc mạnh. Cả ngôi nhà cứ như cái ô cắm trong bão chỉ trực bay lên. Lúc đó cả cán bộ lẫn giáo viên của trường đành mỗi người ôm một cột để giữ cho nhà khỏi bị bay mất. Có những lúc gió mạnh tưởng chừng bốc luôn cả năm cái “cột người” lên mà chơi trò tung hứng…”.

Khó khăn ở đây thì có cả ngàn thứ, đã có không ít người chẳng thể vượt qua được đành bỏ cuộc về quê. Vậy mà những người tôi may mắn được gặp lại là những tấm gương dám đương đầu với gian khổ, bám bản dạy chữ cho con em đồng bào La Hủ ở đây. Vừa rồi, thầy Tuấn được nhà trường cho phép chuyển về dạy ở các bản trung tâm, nhưng anh vẫn xung phong ở lại đây vì đã quen trường, quen học sinh và quen gian khổ. Cô Thúy thì để lại hai cô con gái bé bỏng ở Thủ đô, lên đây nhìn học sinh mà nhớ con phát khóc. Thế nên mỗi khi đi lấy nước, giặt quần áo cô lại dẫn thêm mấy học trò đi tắm gội, giặt giũ cho các em để vơi đi nỗi nhớ. Mùa đông lạnh giá nhưng ở đây nhiều em mặc không đủ ấm vẫn nhiệt tình ra lớp với đôi môi tím tái. Vậy là mỗi khi về quê các thầy, cô lại gom hết quần áo cũ của gia đình mình, có cô giáo còn viết thư về vận động các trường học ở Hà Nội ủng hộ áo quần cho các em. Lên đây tôi thấy nhiều học sinh còn mặc cả đồng phục của trường Tiểu học Cát Linh (Hà Nội). Các thầy đã vượt khó, bám bản, bám trường, bám học sinh nên phong trào đi học ở Pa Thoóng đã đi lên đáng kể. Thầy cô ở đây đều nhận xét rằng các em đi học rất chăm chỉ, biết nghe lời chỉ có điều còn ít mạnh dạn mà thôi.

Khi chúng tôi đến thầy Tuấn và vài em học sinh đang chăm chú tô màu cho tờ báo tường của lớp chuẩn bị cho ngày 20-11. Trong đó có bài thơ Thầy em do chính tay thầy Tuấn viết trong đó có câu: Dìu dắt đàn em thắp ngọn đèn và đến nay ngọn đèn ấy đang được thầy và trò Pa Thoóng khêu mỗi ngày một rạng.

Bài, ảnh: Khánh Kiên