Hoàng thân vào khoang thuyền đặt lưng trên chiếc chiếu hoa còn thơm mùi cói, gối lên chiếc gối mây mà thở phào khoan khoái. Vẫn những tiếng động thanh bình như năm xưa: Tiếng mái chèo vỗ nước, tiếng đập chiếu vang sông của các cô thôn nữ đang tắm giặt ở các bến. Tiếng bò rống, chó sủa, gà gáy trưa xa xa, Người tưởng tượng ra cả tiếng bờ tre kẽo kẹt và tiếng võng đưa của bà ru cháu. Thanh bình đến mức Hoàng thân cảm nhận được cả mùi nước sông thoang thoảng thơm theo làn gió mát hiền hòa. Hai mắt vừa ríu lại nhưng không có những giấc chiêm bao như ngày tuổi thơ. Bao nhiêu công việc dồn nén trong đầu không cho phép “cái ngủ” ập đến. Hoàng thân choàng dậy, mở ba lô ra ghi chép.
… “Gặp Bí thư khu ủy Liên khu 4 của 6 tỉnh Bình - Trị - Thiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh sẽ bàn cái gì trước, cái gì sau để phối hợp chiến đấu của các tỉnh cùng chung biên giới với Lào. Biết bao điều cần bàn bạc sự quan hệ Việt-Lào ở Khu 4.
Sẽ làm việc thời gian bao lâu với đồng chí Nu-hắc Phum-xa-vẳn - Chủ tịch ủy ban kháng chiến miền Đông Lào hiện đang có mặt ở Thanh Chương…
Rồi ra Việt Bắc sẽ thông báo với Chủ tịch Hồ Chí Minh tình hình tổng quát cuộc kháng chiến của Lào đang gặp những khó khăn gì cần đề xuất, xin ý kiến Hồ Chủ tịch, vấn đề gì cần thiết phải phản ánh để giải quyết trước tiên”.
 |
Gia đình Hoàng thân Xu-pha-nu-vông thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội năm 1959. Ảnh tư liệu |
Hoàng thân mở sổ kiểm lại những chuẩn bị cụ thể tình hình cuộc kháng chiến đã hình thành và hoạt động ở Lào lúc này và hướng hoạt động trong tương lai…
… “Nhiệm vụ chiến đấu chặn bước quân thù đầu cuộc kháng chiến và sơ tán lực lượng đã xong bước đầu, nay Liên quân Lào-Việt và nhân dân tản cư đã dần dần trở về các địa phương. Đang ra sức tuyên truyền vận động nhân dân tham gia chiến tranh du kích, xây dựng cơ sở và căn cứ kháng chiến. Tích cực tăng gia sản xuất, chăn nuôi để có ăn mà đánh giặc lâu dài. Cho con em vào bộ đội, dân quân, du kích địa phương, tập luyện quân sự và học tập những chủ trương đường lối mới trong tình hình mới của cách mạng, để nhân dân hiểu rõ mà tham gia kháng chiến bằng mọi cách đánh nhỏ, đánh giặc đi ruồng bố lẻ tẻ nhằm cướp súng giặc trang bị cho mình. Mặt khác tự làm lấy súng kíp, đúc lựu đạn, làm cung nỏ, tên độc, đào hầm chông, đặt bẫy… đánh giặc khắp nơi”…
Những ý nghĩ, những công việc dồn dập diễn ra trong đầu khiến ngòi bút của Hoàng thân ghi mãi vẫn không kịp, mà thuyền đã cập bến Thanh Chương. Bộ đội tháp tùng vừa nhảy lên bờ triển khai công việc bảo vệ, Nguyễn Tử Quỳ vừa quàng chiếc ba lô của Hoàng thân qua vai thì trên bờ một anh nông dân trạc 35 tuổi, mặc bộ quần áo nâu sồng giơ cả hai tay, miệng kêu: “Anh Chính[1] về rồi” và chạy xuống bến ôm lấy Hoàng thân. Anh nông dân chính là Bí thư Liên khu ủy 4 Nguyễn Chí Thanh. Hoàng thân nắm chặt cả hai tay Nguyễn Chí Thanh, ngắm nghía khuôn mặt anh và nói: “Không khác chi cả”. Anh Thanh cũng ngắm nghía khuôn mặt hơi hốc hác vì phải hành quân nhiều ngày của Hoàng thân mà nói: “Anh Chính vẫn như cách đây 5 năm ở Huế. Nhưng bây giờ có thêm bộ ria… trông oai quá”. Hai người lại ôm nhau mà lắc và cười vang bến nước.
Anh Thanh dẫn Hoàng thân về cơ quan đóng trong nhà dân, phải băng qua một vườn cau, mít, cam, bưởi. Mùi hoa ngạt ngào thơm.
Nhà bí thư khu ủy nền đất nện, Hoàng thân bỏ dép, đi mát cả bàn chân. Mái nhà lợp tranh nhưng cột nhà bằng gỗ mít vàng hươm còn thơm mùi gỗ. Riêng cái bàn làm việc bằng gỗ còn tất cả giường chõng đều bằng tre. Có võng mắc qua hai cột nhà. Ngoài vườn cũng có võng gai mắc qua hai thân cau.
Vào nhà, anh Thanh chưa nói gì đến công việc, miệng khoe:
- Sau lưng nhà này có cái bến tuyệt lắm. Có cả sàn cầu tre bắc ra sông. Chừ ta đi tắm cái đã.
Nói rồi Nguyễn Chí Thanh trao cho Hoàng thân cái khăn tắm, cười hỏi:
- Anh Chính có quần đùi chưa. Bến vắng lắm...
Suốt cả tháng nay chưa được một lần tắm thỏa thích. Gặp sông thì vì giữ bí mật, bộ đội bảo vệ không cho ra sông. Gặp suối cũng tắm lớt phớt như chim tắm cho mau xong để đi. Ở lâu sợ lộ, địch mà biết thì gay to. Bây giờ được tắm trên dòng sông tự do, lại là dòng sông đầy ắp kỷ niệm đối với Hoàng thân thì còn gì bằng. Hai người xuống bến. Khúc sông Lam chảy qua đây trong vắt như nước mưa, dưới chân cát mịn có thể thấy những con cá bống cát vàng hươm đang bò dưới đáy cát.
Hoàng thân vẫy vùng thỏa thuê trên dòng sông. Trời vào tháng 10 âm lịch nhưng vẫn chưa mát. Ánh nắng chiều chiếu xiên vào bến cái màu nắng đẹp màu mật. Nguyễn Chí Thanh bơi ra giữa sông lại thoăn thoắt bơi vào. Thời học trò anh Thanh đã nổi tiếng là “Cá kình của vùng sông Bồ”, nhưng Xu-pha-nu-vông cũng đã từng bơi vượt sông Mê Công, sông Xen, sông Hồng. Hai người nổi hứng bơi đua. Xu-pha-nu-vông hơn Nguyễn Chí Thanh đến 5 tuổi, nhưng vẫn bơi khỏe như trai tráng. Nguyễn Chí Thanh phải cố gắng lắm mới bơi theo kịp.
Chưa bao giờ Hoàng thân được tắm sông một lần lâu và sảng khoái như thế. Khi hai người lên bờ, bước về giữa sân thì trời cũng vừa nhá nhem. Anh Chắt người cận vệ của Bí thư khu ủy đã đặt một mâm cơm trên cái bàn tre, có hai cái chõng tre dài. Nồi cơm bốc hơi thấy rõ mấy khúc khoai lang vừa trắng vừa tím được hấp cơm nằm trên mặt nồi. Tô canh rau nấu hến cũng đang bốc hơi lại thêm bát cà pháo với chén mắm tôm.
Khi ngồi vào bàn, vừa bưng bát lên, anh Thanh chỉ vào món nộm và bát nước chấm màu nâu có những hạt đậu nành trắng nổi lên nói:
- Đố anh Chính, hai món gì đây.
Hoàng thân gắp một mũi đũa, nhúng vào nước chấm vừa đưa lên miệng đã nói ngay:
- Tôi nhớ ra rồi: Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn.
Nguyễn Chí Thanh cười, kêu lên:
- Giỏi! Giỏi. Thế mới chính cống là nông dân làm thủy lợi của Nghệ An!…
Hôm sau, trời vừa sáng, Hoàng thân đã dậy tập thể dục và lại tắm sông. Ăn sáng xong, thấy Hoàng thân tỏ vẻ sốt ruột mong sớm được gặp Bác Hồ. Anh Thanh nói:
- Tối hôm qua Cụ điện vào giao cho Khu 4 phải nuôi anh Chính nặng thêm đủ ba ký mới cho đi Việt Bắc.
- Thế là còn duyên nợ với Thanh Chương, Đô Lương.
Mấy ngày sau làm việc với Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Đông Lào Nu-hắc Phum-xa-vẳn và bàn bạc kế hoạch công tác với Bí thư khu ủy 4 xong, anh Thanh đưa Hoàng thân đi thăm lại bara Đô Lương. Hai người hai xe đạp, đạp nhanh theo những dòng nông giang. Hoàng thân vui sướng nhìn những dòng kênh mương quen thuộc mà bảy, tám năm về trước có công sức mình góp vào xây dựng.
Dòng nước từ nguồn sông Cả đổ về qua đập Đô Lương và chảy về mọi cánh đồng. Nước trên các kênh mương tự chảy đầy ắp và trong suốt. Hàng đàn vịt bầu bơi lội tung tăng. Nông dân các làng ven ra kênh tắm giặt, gánh nước… Không ai nhận ra hai ông nông dân đạp xe trên đê. Cũng không ai nhận ra người kỹ sư Lào đã từng gắn bó với họ và những dòng sông trên quê hương họ. Đến một cái cầu bê tông bắc qua kênh về cống Mụ Bà bị Pháp ném bom làm sập một đầu, anh Thanh chụp một bức ảnh Hoàng thân dắt xe đạp đứng bên cầu sập rồi kể:
- Bọn Pháp ném bom mãi vẫn không trúng đập vì bộ đội súng máy 12,7mm bắn dạt nó ra. Thằng Tây lái máy bay cũng non gan, nên ném bom bừa rồi về. Nhưng bom mãi không trúng thì Pháp vẫn còn âm mưu phá đập nước. Anh em công an khu đã chặn đứng được mấy vụ địch cho Việt gian đặt mìn.
Bí thư Khu ủy Nguyễn Chí Thanh và Khu 4 đã thực hiện đúng lời Bác Hồ dặn, ngoài việc tìm những kế hoạch, biện pháp giúp Lào thật cụ thể xong xuôi; thì việc chăm sóc sức khỏe Hoàng thân cũng đạt kết quả tốt. Sau thời gian ở thăm và làm việc với khu ủy và Ủy ban Liên khu 4, trước khi chia tay tiễn Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đi Việt Bắc đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã đưa Hoàng thân đi Kim Liên, Nam Đàn thăm quê hương của Bác Hồ.
Lại thêm một tháng nữa đội bảo vệ do Nguyễn Tử Quỳ chỉ huy, bảo vệ Hoàng thân vượt qua đồn bốt địch trên đường ra Việt Bắc - Đoạn đường này gian khổ không kém từ biên giới Thái - Lào về Việt Nam, nhưng vừa được nghỉ ngơi dưỡng sức ở Thanh Chương, cả đoàn đều hành quân một cách hăng hái đầy khí thế.
Càng ra gần đến Việt Bắc, Hoàng thân rất vui. Những ngày đi đường sau cùng, Hoàng thân quên cả nguy hiểm mệt nhọc. Người bước thoăn thoắt, Nguyễn Tử Quỳ bước theo mà như chạy. Cả đội bảo vệ ngạc nhiên sao đến rừng Tuyên Quang, ông A bước như “nước mã hồi”. Lâu lâu ông dừng lại gật gật đầu như động viên mọi người rồi kéo khăn vắt vai lau mồ hôi, lại bước tiếp. Gió rừng thổi nhè nhẹ, chim hót líu lo trên các cành cây. Lá rừng lao xao xào xạc, bộ râu ông A bay bay phất phơ trong gió. Bây giờ mọi người mới nhận ra cằm ông râu đã mọc dài. Những ngày ở Nghệ An, ông mới có ria mà chưa có râu. Hơn một tháng hành quân, ông như đã thành người khác.
Rồi trạm khách cuối cùng cũng đã đến. Đội bảo vệ của ông Quỳ được dừng lại, về lán nghỉ ngơi. Người của Bác Hồ đã ra bìa rừng đón Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Một người to cao cưỡi con ngựa hồng, dẫn theo một con ngựa bạch, mời Hoàng thân lên ngựa đi theo một con đường mòn dưới tán những cây cổ thụ, rồi lội theo một con suối nhỏ nước không sâu, đầy sỏi trắng, đá cuội màu gan gà, nước chảy róc rách.
Vài chục phút sau theo “con đường nước” Hoàng thân chợt ngửng lên nhìn một mái tranh tọa trên mỏm một đồi, thì nhận ra Bác Hồ đã đứng đấy tự bao giờ, tay vẫy chào, miệng mỉm cười. Hoàng thân liền nhảy xuống ngựa, chạy lên. Bác Hồ cũng sải chân bước xuống, hai người ôm lấy nhau như ruột thịt xa cách lâu ngày nay mới gặp lại. Hoàng thân xúc động muốn reo lên, muốn kêu lên chào Bác, nhưng cổ nghẹn lại, nước mắt lưng tròng… Thấy khuôn mặt khắc khổ của Hoàng thân, nhưng một điều rất mới khác lạ với khi gặp gỡ Hoàng thân những ngày đầu tháng 9 năm 1945 ở Hà Nội, là bây giờ Hoàng thân đã để râu. Hoàng thân nhớ lại lúc đó Bác Hồ có nói rằng “bộ râu của ông Hoàng thật hiên ngang”. Lần gặp Bác Hồ lần đầu tiên Hoàng thân chưa để râu.
Tuy Hồ Chủ tịch hơn Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đến ngót hai chục tuổi, nhưng Bác xem Hoàng thân như người bạn tâm đắc. Bác đón Hoàng thân như đón người nhà. Không lễ nghi rườm rà, không khách sáo nhưng thật trọng thị như đón một chính khách, một nguyên thủ quốc gia. Bởi vì chỉ sau khi Bác Hồ mời Hoàng thân vào căn nhà mái vần tre nứa của mình vừa ngồi xuống, thì các bậc lãnh đạo của nước Việt Nam đã tề tựu đến chào mừng Hoàng thân đến Việt Bắc: Đó là các vị Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt...
Hoàng thân xúc động khi đã tìm gặp lại những người bạn lớn – những người bạn thủy chung của nhân dân và đất nước Lào.
Sau những buổi họp bàn cụ thể về tình hình Liên minh Lào-Việt chống Pháp, hai vị lại nằm chung trên sạp tre, ăn cơm độn củ rừng. Chiều chiều lại đem nhau ra sân đánh bóng chuyền. Cùng nhau chân đất ra làm vườn trồng rau. Có khi cả văn phòng chủ tịch cùng Bác Hồ và Xu-pha-nu-vông, hai người đứng về hai phía dẫn đầu chơi trò rồng rắn, kéo co, bịt mắt bắt dê…
Mấy tháng ở Việt Bắc với Bác Hồ và các lãnh tụ cách mạng Việt Nam, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã tìm ra con đường mới, phương pháp mới, chiến thuật và chủ trương mới để đem về áp dụng cho cuộc đấu tranh, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.
Hoàng thân trở về Lào được ít lâu, vào ngày 13-8-1950, tại căn cứ địa kháng chiến Thượng Lào đã khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc Lào, thành lập Chính phủ Lào kháng chiến và thành lập Mặt trận Lào tự do (Neo Lao Ít-xa-la). Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã được nhân dân Lào bầu làm Thủ tướng kiêm Chủ tịch Mặt trận Lào tự do.
Kể từ ngày đó, cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân các bộ tộc Lào bước sang một giai đoạn quyết liệt mới…
TRẦN CÔNG TẤN
1 Mật danh của Hoàng thân