 |
| Hoàng thân Xu-pha-nu-vông và phu nhân trong một chuyến thăm Hà Nội. Ảnh tư liệu |
Sau khi vết thương đã lành, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông liên lạc ngay với Đảng và các tổ chức cách mạng, kiên quyết chiến đấu giành lại độc lập cho đất nước. Người đã xông xáo tìm kiếm mọi biện pháp để xây dựng lại lực lượng vũ trang. Hoàng thân đã nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân Thái Lan, nhân dân Miến Điện ở bang Xan, lại được sự giúp đỡ tận tình của Tổng đại diện chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Thái Lan. Các đơn vị của quân đội Lào Ít-xa-la đã được đưa về Lào hoạt động đánh Pháp. Liên quân Lào-Việt sơ tán ở các nơi quay trở về cùng Việt kiều giải phóng quân đã đánh địch ở khắp nơi trong nước như các trận đánh Pháp ở Luông Phra-băng, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Viêng Chăn. Các lực lượng vũ trang trong vùng dân tộc thiểu số thuộc các bộ tộc Lào cũng tổ chức thành lập theo lời kêu gọi của Xứ ủy Ai Lao và của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông.
Tháng 9-1947, tại khu căn cứ kháng chiến Xiêng Khoảng, đơn vị vũ trang yêu nước đầu tiên của người Mông do Thào Tu (Cho-tủ-da) thành lập mang tên Pát Chay, vị lãnh tụ người Mông chống Pháp trước kia, gọi là đội Coòng Pát Chay.
Coòng Pát Chay đã phối hợp với bộ đội huyện Kỳ Sơn, Nghệ An đánh cho quân thù nhiều đòn chí tử ở Noọng Hét, Nậm Cắn và dọc đường số 7.
Bước sang năm 1948, sau gần hai năm trở lại xâm lược Lào, thực dân Pháp đã phải chọn lựa và thay đổi cải tổ chính phủ bù nhìn đến hai lần. Nhưng bọn tay sai vẫn rối ren tranh giành ảnh hưởng nhau giữa ba phái Viêng Chăn, Luông Phra-băng và Chăm-pa-xắc. Cuối cùng, giặc Pháp đã chọn được Bun Ùm Na-chăm-pa-xắc là tên tay sai đắc lực phản động nhất trong nhóm Hạ Lào lên làm thủ tướng thành lập ra chính phủ bù nhìn mới.
Cũng vào đầu năm ấy, ở Thái Lan, thống chế Phi-bun Xổng Kham quay trở lại làm thủ tướng, áp dụng chính sách thân Mỹ, chống Cộng sản, thù địch với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ba nước Việt, Miên, Lào. Chúng tìm mọi cách gây khó khăn cho Chính phủ độc lập lâm thời Lào đang lưu vong và các nhà cách mạng Lào đang ở Băng Cốc.
Trước sự o ép cấm đoán của Phi-bun Xổng Kham đối với Chính phủ độc lập lâm thời Lào đang lưu vong, lại được vua bù nhìn Lào cùng với thực dân Pháp mời gọi, dụ dỗ mua chuộc, ngày 25-10-1949, Khăm Mạo Vi-lay, Thủ tướng chính phủ lâm thời Lào Ít-xa-la đã tuyên bố giải tán chính phủ của mình, rồi cùng với những cộng sự ươn hèn, cầu an kéo nhau trở lại Lào đầu hàng quân Pháp. Riêng hai thành viên trong Chính phủ Lào lưu vong là Hoàng thân Phết-xa-rạt, cố vấn chính phủ và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm Tư lệnh các lực lượng vũ trang tuyên bố tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ngày 29-10-1949, tại thủ đô Băng Cốc, Thái Lan, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông họp báo và công bố trước công luận và thế giới rằng:
... “Chúng tôi một lần nữa khẳng định với sức mạnh của nhân dân, chúng tôi tin tưởng vững chắc ở thắng lợi cuối cùng vì chúng tôi không bao giờ đơn độc trên con đường chính nghĩa này. Các bạn In-đô-nê-xi-a, Việt Nam và Cam-pu-chia cũng đang tiến bước trên con đường độc lập và chúng tôi cũng đang nhận được sự đồng tình và ủng hộ của tất cả các dân tộc yêu chuộng tự do. Đặc biệt là các nước láng giềng lớn đã luôn luôn động viên, cổ vũ chúng tôi”…
Chính phủ Thái Lan do Phi-bun Xổng Kham cầm đầu lúc này đã phơi bày rõ chính sách thù địch chống lại phong trào dân tộc của Lào. Việc chỉ đạo cuộc đấu tranh trong nước Lào gặp phải rất nhiều khó khăn phức tạp. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Hoàng thân Xu-pha-nu-vông chuyển về vùng tự do của Việt Nam để cùng bàn bạc công việc cứu nước Lào. Hoàng thân đã chấp nhận lời mời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phái đồng chí Nguyễn Tử Quỳ chỉ huy một đơn vị bộ đội bảo vệ đến biên giới Lào-Thái đón Hoàng thân. Nguyễn Tử Quỳ là một trong những chiến sĩ tình nguyện quân đầu tiên đã từng chiến đấu bên cạnh Hoàng thân tại Thà Khẹc từ cuối năm 1945 cho đến tháng 3 năm 1946, cũng cùng bị thương trong trận đánh lịch sử đó.
Đêm 18-11-1949, Nguyễn Tử Quỳ cùng tổ trinh sát của Liên quân Lào - Việt dẫn bộ đội bảo vệ bí mật tiến vào vùng biên giới Lào-Thái ở Bưng Quang sát bờ sông Mê Công thuộc địa phận tỉnh Bô-li-khăm-xay. Đơn vị được Nguyễn Tử Quỳ phổ biến mệnh lệnh của Tổng hành dinh: “Nhiệm vụ: Đón ông A1 từ Thái Lan về Việt Nam. Yêu cầu tuyệt đối bí mật. Khi chưa đón được ông A, tuyệt đối tránh nổ súng khi gặp địch, cố tránh địch và xóa dấu vết của đơn vị. Khi đón được ông A, công việc bảo vệ hết sức chặt chẽ. Gặp địch thì cố tránh. Nếu địch biết rõ ta đi đón ai và chúng nổ súng trước, thì đơn vị chiến đấu dù phải hy sinh đến người cuối cùng, cũng phải bảo vệ cho bằng được, đưa ông A về vùng tự do Việt Nam được an toàn, khỏe mạnh”.
Anh em chiến sĩ rỉ tai nhau không biết ông A là ai, nhưng chắc chắn đó là một lãnh tụ của cách mạng Lào, lại là bạn của Bác Hồ. Vậy thì chuyến đi lịch sử này các chiến sĩ lấy làm vinh dự, tự hào và hãnh diện. Do vậy mọi người bảo nhau phải chấp hành mệnh lệnh bảo vệ một cách nghiêm ngặt nhưng đầy tình cảm kính yêu đối với vị khách.
20 giờ, bộ đội bảo vệ đã triển khai bố trí cảnh giới theo bờ sông Mê Công, đào xong hầm hào, ngụy trang kín đáo, đặt súng máy sẵn sàng chiến đấu và đứng yên dưới các hố cá nhân, hồi hộp chờ đợi. Trời tối đen không một ánh sao. Chốc chốc có ánh đèn pha và tiếng phành phạch của ca nô tuần tiễu trên sông của giặc chạy lướt qua. Mọi người suốt ngày hành quân mệt rã rời nhưng không ai dám chợp mắt. Tất cả những con mắt mở to nhìn về bờ bên kia sông. Chốc chốc ông Quỳ lại đưa tay lên xem những con số dạ quang của cái đồng hồ Vile. 23 giờ thấy bên kia sông có một chấm ánh sáng như con đom đóm. Tắt đỏ, tắt đỏ, tắt đỏ. Ba lần. Đúng là mật hiệu của đoàn ông A. Quỳ vội vàng nâng đèn pin lên trả lời tắt đỏ, tắt đỏ, tắt đỏ… ba lần. Cộng cả hai bên là 6 lần tắt đỏ. Đúng mật hiệu rồi. Bên kia bấm tắt đỏ hai lần là báo hiệu khách đã bắt đầu vượt sông.
Bốn mươi phút chờ đợi như hơn bốn mươi ngày dài. Mọi người đứng cả dậy đưa mắt nhìn xuống dòng sông đen ngòm. Quỳ nói truyền lại cho các chiến sĩ: “Nếu có ca nô tuần tiễu địch xuất hiện, súng máy sẵn sàng chờ lệnh, mới được bắn. Nếu địch bắn vào thuyền ông A thì cả hai súng máy bắn mạnh kiềm chế ca nô địch, bảo vệ thuyền”.
Nhưng rồi chẳng có địch và tiếng mái chèo dưới sông đã vọng lên. Lát sau một chiếc thuyền độc mộc lao mạnh cái mũi nhọn trượt lên bờ cát nghe sào sạo. Quỳ vội vàng chạy xuống đỡ một người to lớn lên bờ rồi ôm chầm lấy, miệng như reo lên: “Chào bác, cháu đây. Nguyễn Tử Quỳ Thà Khẹc đây ạ”. Chắc chắn đó là ông A. Ông A vỗ vỗ vào lưng Quỳ và nói: “Quỳ đấy à?”.
Đoạn hai người vội buông nhau ra. Bộ đội bảo vệ rời khỏi công sự, xếp hàng theo con đường nhỏ. Bốn chiến sĩ mang võng đến mời ông A lên võng để khiêng đi. Ông A nói: “Chào các đồng chí. Tôi đi được, không phải nằm võng đâu”.
Ông A mang ba lô, lưng đeo súng ngắn, tay chống gậy bước thoăn thoắt, khỏe mạnh. Ông A trèo núi cũng nhanh nhẹn. Lúc qua vùng Ma-hã-xay, Khăm Cợt, gặp bờ vực dốc đứng, đá tai mèo lởm chởm rất khó đi và nguy hiểm, ông A vẫn nói đùa: “Giá ở đây có cái lan can như tay vịn cầu thang mà đi thì hay biết mấy”.
Nguyễn Tử Quỳ chạy lên nhắc nhở anh em đi phía trước phải cảnh giác đề phòng địch phục kích, gài mìn rồi lại chạy lui phía sau dặn dò đề phòng địch truy theo, đánh tập hậu. Xong mọi việc đề phòng cẩn thận trong hành quân, Quỳ lẳng lặng đi sau Hoàng thân, đề phòng ông vấp ngã. Nhưng Hoàng thân chưa vấp ngã lần nào thì chính Quỳ là người ngã đến mấy lần. Sau này khi ghi lại đoạn hồi ức này, Quỳ viết: “Đây là một chuyến đi lịch sử, cơ hội nghìn năm mới có một lần cho nên Quỳ rất hồi hộp và cảm động. Hình ảnh đậm nét đọng lại đầy kỷ niệm là vào mùa đông năm 1945, khi tham gia lực lượng Liên quân Lào-Việt, được chiến đấu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng thân để bảo vệ chính quyền cách mạng. Đến nay lại vinh dự được Bác Hồ phái đi đón và bảo vệ đưa Hoàng thân về gặp Bác Hồ tại vùng tự do Việt Bắc.
Đoàn bảo vệ cứ đi một giờ lại dừng nghỉ mười lăm phút. Ngồi nghỉ thì Hoàng thân kể một mẩu chuyện vui hoặc hỏi thăm gia đình người lính ngồi cạnh rồi nghe ra-đi-ô, nắm tin tức. Có khi Người nói riêng với Quỳ bằng tiếng Pháp: “Nếu cuộc vượt sông này chậm lại vài ngày nữa chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra với hai anh em của Người. Bởi công an bí mật của Tổng đại diện Việt minh cho biết, bọn Đơ-dem bu-y-a-rô2
đã cho tay chân qua Thái Lan liên lạc với bọn quân phiệt Phi-bun Xổng Kham chuẩn bị kế hoạch ám hại Hoàng thân Phết-xa-rạt và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông”, Quỳ nghe mà hú vía. Có lúc nghỉ, Hoàng thân mở ba lô ra sắp xếp lại đồ đạc, tài liệu cho gọn. Ba lô của ông, ngoài vài bộ áo quần, còn lại là tài liệu. Rất nhiều tài liệu, sổ sách ghi chép, giấy tờ quan trọng. Quỳ đề nghị Hoàng thân san bớt đồ đạc để mang giúp. Hoàng thân cảm ơn và nói: “Tôi mang thế này là vừa sức rồi”.
Ngót cả tháng trời, đội bảo vệ của Nguyễn Tử Quỳ đưa Hoàng thân vượt qua biết bao núi đèo hiểm trở và nhiều đồn bốt giặc. Đoạn gay go cuối cùng là xuyên qua tỉnh Xiêng Khoảng để vượt Trường Sơn về miền Tây Nghệ An. Lúc qua địa phận của các vùng Mường Moọc, Noọng Hét, bộ phận bảo vệ phía sau phải chạm súng với bọn phỉ của Tu Bi tay sai giặc Pháp để bộ phận đi trước đưa Hoàng thân vượt sông Nậm Mô và Nậm Cắn vào vùng đất tự do của tỉnh Nghệ An.
Hoàng thân nhớ lại cũng đoạn đường này, gần 30 năm trước, lúc 12 tuổi, Người là Hoàng tử ngồi trên mình voi để đi du học ở Hà Nội. Bây giờ cũng đoạn đường này Hoàng thân vai ba lô, chân dép cao su vượt biên giới giữa bốn bề đồn bốt giặc vây.
Trên hai con thuyền xuôi về sông Lam, Thanh Chương, đội bảo vệ của Nguyễn Tử Quỳ thở phào nhẹ nhõm vì đã vượt qua tất cả nguy hiểm gian lao rồi, nên mọi người vỗ súng hát vang. Cũng như xưa, Hoàng thân đứng trên thuyền ngắm xóm làng hai bên dòng sông và nhớ lại những năm 1942-1943, Người đã qua biết bao địa danh quen thuộc nơi đây: Truông Bát, Truông Mèn, Bến Rộ, Bến Rạng, Bến Giăng, Đô Lương, Rú Ngọc, Truông Bồn… để làm hồ chứa nước cạnh chợ Rộ và làm hàng trăm mương máng dẫn nước từ Đô Lương về tưới cho các cánh đồng lúa Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành…
(còn nữa)
TRẦN CÔNG TẤN
--------------------------
1 - Bí danh của Hoàng thân lúc đó