Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông tại Chiến khu Việt Bắc năm 1951. Ảnh tư liệu

Từ khi biết Hoàng thân Xu-pha-nu-vông chỉ huy đội quân bảo vệ Thà Khẹc, bọn Pháp tăng cường hoạt động ở đường số 8, số 12, vùng Lắc Xao, Khăm Cợt, Na Kai để thăm dò và thỉnh thoảng đụng độ với các đơn vị trinh sát của Liên quân Lào Việt. Tại Mặt trận Thà Khẹc, quân Pháp tăng cường hoạt động ở phía Bắc và Nam thị trấn dọc theo con đường Thà Khẹc Nhom-ma-lạt, Thà Khẹc – Xa-văn-na-khệt. Sở chỉ huy của chúng đặt tại Nhom-ma-lạt. Đơn vị tiền duyên của chúng đóng ở Mường Cầu và cây số 10 trên đường 13. Một đơn vị khác đóng ở Ma-hả-xay.

Để bảo vệ Thà Khẹc, Hoàng thân trực tiếp chỉ huy liên quân mở rộng địa bàn ra 15km, đánh chiếm sở chỉ huy của Pháp ở Na Ma-lạt, đồng thời liên tục chiến đấu suốt cả tháng 12 cho đến tháng 1-1946. Lúc này Chính phủ quốc dân Đảng Trung Quốc đã đồng ý cho Pháp đưa quân vào Lào thay thế cho Trung đoàn 93 của Tưởng Giới Thạch. Lợi dụng tình thế này, quân Pháp đã mở nhiều đợt tấn công vào Thà Khẹc. Quân ta đã chống trả rất anh dũng như, trận đánh ác liệt ở Na Mương và các trận khác ở phía Nam Noọng Bua vùng ngoại ô.

Khoảng giữa tháng 2-1946, chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Thà Khẹc đã triệu tập cuộc họp bất thường nhận định tình hình và thấy rằng quân Pháp đang ráo riết chuẩn bị để đánh chiếm Thà Khẹc. Chi bộ đã ra nghị quyết chỉ đạo các lực lượng vũ trang chiến đấu đến cùng để bảo vệ Thà Khẹc và cho dân chúng tản cư qua Thái Lan. Nghị quyết trên đã được trình lên Hoàng thân Xu-pha-nu-vông và được Người chuẩn y. Mặc dù đã có nghị quyết như vậy nhưng không phải mọi người dân đều chịu rời bỏ nhà cửa, của cải để tản cư dễ dàng. Phần lớn nhân dân đã tình nguyện ở lại để giúp đỡ các lực lượng chiến đấu.

Ngày 18-3-1946, ngay sau khi quân Pháp chiếm được thị trấn Xa-văn-na-khệt, Bộ chỉ huy Pháp tại Lào đã ra lệnh cho quân Pháp phải đánh chiếm bằng được thị trấn Thà Khẹc nội trong ngày 21-3-1946. Các lực lượng có nhiệm vụ đánh chiếm Thà Khẹc lúc đó không chỉ có bọn lính Pháp tại chỗ mà còn có bọn sĩ quan, quân lính và vũ khí từ Sài Gòn gửi tới cùng các phương tiện chiến tranh khác do bọn Anh cung cấp. Như vậy, các lực lượng Pháp chuẩn bị đánh vào Thà Khẹc có hai tiểu đoàn bộ binh bao gồm lính Pháp, Âu Phi là chính và một số lính đánh thuê người Lào, cùng hai đơn vị xe bọc thép, hai đơn vị pháo, bốn máy bay chiến đấu cùng các máy bay vận tải do thám đóng tại sân bay Xê Nô.

Với lực lượng áp đảo như vậy, phía tình báo Pháp lại còn nắm rõ các vị trí đóng quân của các lực lượng vũ trang của ta ở Thà Khẹc.

Rạng sáng ngày 21-3-1946, Pháp cho các máy bay thám thính bay đến trận địa ta thả truyền đơn xuống thị xã với tối hậu thư buộc các lực lượng yêu nước phải hạ vũ khí đầu hàng, nếu không, chúng sẽ tiêu diệt. Quân ta không thèm trả lời, chỉ hơn 30 phút sau đó Pháp cho các máy bay chiến đấu Spichphay và pháo binh bắn phá, ném bom, đồng thời bộ binh và xe tăng áp sát vào thị xã. Hai chiếc máy bay Spichphay ném bốn quả bom xuống chợ Thà Khẹc trong lúc chợ còn đông làm chết nhiều người. Người chết và bị thương nằm la liệt giữa chợ đa số là chị em nội trợ, buôn bán. Trên các ụ súng, hầm hào, quân ta đánh trả quyết liệt. Mọi người không lường trước được sự tàn ác dã man của giặc, đến lúc giặc ra tay tàn sát mới vội vã chạy xuống bờ sông. Một số kịp lên thuyền, số thì bơi, số khác dùng cây chuối làm bè, dùng vải nhựa bọc áo quần lại làm phao. Mặt sông đầy người như kiến vỡ tổ. Giặc Pháp lại cho thêm hai máy bay Spichphay khác đến ném bom xuống sông. Chiếc tàu thủy Ma-ga-đanh bị trúng bom bốc cháy làm xăng, dầu tràn ra lênh láng trên mặt nước cũng bốc cháy như một dòng sông lửa. Pháo binh và bộ binh địch đã áp sát bắn vung vãi xuống dòng sông. Giữa lúc bom đạn mù trời, người ta thấy các nữ cứu thương người Việt đã lao ra băng bó cấp cứu cho bộ đội và các bà mẹ, các em bé Lào bị thương rồi đưa họ xuống thuyền, đẩy thuyền qua sông. Chị Hoàng Mỹ Thục cõng được các em gái Lào đặt vào thuyền, khi quay lại đón các em khác thì bị trúng đạn. Chị Đặng, chị Xuân, chị Tường Vy mải băng bó cứu đồng bào cho đến khi địch tràn ra bờ sông hò hét đòi bắt sống, cả ba chị mới nhào xuống nước bơi ra được một đoạn thì giặc xả súng bắn theo giết chết hết.

Trên mặt sông Mê Công lúc bấy giờ mịt mờ khói bom đạn. Máu của hơn 3.000 người Việt, người Lào đã chan hòa nhuộm đỏ cả một khúc sông. Những người bơi thoát qua bờ bên kia chạy dọc theo sông kêu khóc thảm thiết thương cho số phận người thân còn trôi nổi giữa dòng.

Nhìn cảnh đó, người dân hai bên bờ sông mặt tràn nước mắt, miệng không hết lời nguyền rủa quân xâm lược dã man hơn cả loài ác thú.

Đến 10 giờ trưa, các tuyến phòng thủ của quân cách mạng vẫn còn đứng vững. Hoàng thân xuống tận các chiến hào trực tiếp chỉ huy động viên quân ta chống lại lũ giặc một cách kiên cường, chẳng hề nao núng trước sức mạnh của địch.

Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng quân Pháp vẫn liều mạng lấn tới. Mọi bước tiến của chúng đều được phi pháo và xe bọc thép yểm trợ. Khoảng 11 giờ, bốn máy bay địch đã ném tám quả bom trúng một trận địa phòng thủ ở phía Nam thị xã. Phòng tuyến phía Nam bị giặc chọc thủng, ta phải rút lui. Phòng tuyến phía đông cũng bị vỡ ngay sau đó vì xe tăng đã càn vào. Chỉ còn lại phòng tuyến phía Bắc chống cự quyết liệt, nhưng giặc Pháp đã tiến vào cửa ngõ thị xã. Tình thế quân ta đã vô cùng nguy kịch. Bộ tham mưu của mặt trận đã đề nghị Hoàng thân Xu-pha-nu-vông rút ngay qua sông Mê Công trước, nhưng Hoàng thân không chịu. Người vẫn ở lại chỉ huy đến cùng. Mãi đến khi thấy rằng không thể tiếp tục bảo vệ thị xã vì giặc Pháp đã lọt được vào bên trong Thà Khẹc, thì Hoàng thân mới chịu rời vị trí chỉ huy xuống ca nô đã chờ sẵn.

Hội nghị Liên minh Việt-Miên-Lào tại Chiến khu Việt Bắc tháng 3-1951. Ảnh tư liệu

Việc vượt sông của Hoàng thân gặp lúc địch đã chiếm được những vị trí cuối cùng trong thị xã. Chúng đã dùng mọi lực lượng xe tăng, phi pháo tìm mọi cách đánh chiếm phòng tuyến phía Bắc. Cuối cùng phòng tuyến này cũng bị thất thủ. Nhưng các lực lượng vũ trang Lào-Việt vẫn còn nổ súng trên từng nóc nhà, góc phố. Một số đã rút được qua sông để bảo toàn lực lượng.

Khi chiếc ca nô chở Hoàng thân ra đến giữa dòng sông thì bị một chiếc máy bay phóng pháo bổ nhào xuống bắn xối xả. Anh Lê Thiệu Huy đưa lưng che cho Hoàng thân bị trúng đạn, hy sinh. Người lái ca nô cũng trúng đạn. Hoàng thân cùng với anh Quê, anh Thuần cũng bị thương. Chiếc ca nô mất người lái chao đảo giữa dòng sông và ca nô cũng bị đạn xuyên thủng, nước tràn vào, anh em Việt-Lào bảo vệ Hoàng thân người thì tát nước, người thì nhảy xuống sông bơi dìu ca nô vào bờ. Hoàng thân được anh em băng bó cầm máu đã tỉnh lại và nói với anh em bảo vệ trên ca nô: “Các em để mặc tôi. Các em phải bơi ngay vào bờ. Các em còn trẻ, còn phải sống để chiến đấu lâu dài”. Nhưng anh em không ai chịu rời Hoàng thân, mọi người vẫn cứ tát nước ra và bơi dìu ca nô. Ông Xing-ca-pô đã sang bờ bên kia quay nhìn lại, tưởng Tư lệnh Xu-pha-nu-vông đã qua sông rồi, ai ngờ khi nhìn về bờ sông Thà Khẹc, thấy Hoàng thân vẫn mặc bộ complê trắng khi chỉ huy mà đàng hoàng bình tĩnh xuống ca nô để rút lui cuối cùng. Khi thấy chiếc ca nô của Hoàng thân bị trúng đạn, xoay tròn, Xing-ca-pô liền cho số anh em bộ đội bơi giỏi, bơi ngược trở lại cùng dìu ca nô của Hoàng thân vào bờ. Hoàng thân được bác sĩ Pà-đắp cùng sống sót trên ca nô và các bác sĩ Thái Lan đưa ngay vào bệnh viện của thị xã Na Khon Phả-nôm cứu chữa.

Vết thương của Hoàng thân khá nặng. Người lúc mê lúc tỉnh. Vừa tỉnh lại người hỏi ngay: “Đã an táng anh Huy và người lái ca nô chưa?”, “Anh em bên Thà Khẹc đã rút an toàn hết chưa?”…

Nhưng lúc này cuộc chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng với binh lính Pháp vẫn còn tiếp diễn trong thị xã Thà Khẹc. Những cuộc đọ súng đẫm máu của lực lượng cách mạng còn lại với quân Pháp nhằm vượt qua chợ Thà Khẹc đầy xác chết để thoát vòng vây. Một số đơn vị khác sau khi phá vòng vây đã thoát vào rừng. Các đơn vị quân Pháp tiến được đến bờ sông đã xả súng giết hết tất cả những người còn kẹt lại rồi vứt xác họ xuống sông. Số lính Pháp khác đi lùng bắt và tàn sát những người còn lại trong hầm hào trú ẩn và mọi góc nhà. Khoảng hơn 4 giờ chiều, cuộc chiến đấu lắng xuống nhưng tiếng súng trường, súng máy, lựu đạn vẫn nổ rộ lên chỗ này, chỗ nọ suốt đêm hôm đó.

Ngày 21-3-1946, Thà Khẹc thất thủ, cũng là ngày căm thù của nhân dân Việt - Lào đối với quân xâm lược Pháp. Ngày thất thủ cuối cùng của mặt trận Thà Khẹc, chính là ngày mở đầu, là trận đánh mở đầu cuộc kháng chiến suốt 30 năm để quét sạch bọn thực dân, phát xít, đế quốc xâm lược giành lại nền độc lập thống nhất hoàn toàn cho đất nước Lào.

(Còn nữa)

TRẦN CÔNG TẤN

Chung một chiến hào (Phần 1)