QĐND - Người Lạng Sơn bảo: “Lên được đỉnh Khau Kiêng là lên được đỉnh trời của xứ Lạng”. Những ngày Đông giá lạnh, khi băng tuyết phủ trên ngọn Mẫu Sơn, thì nước trên đỉnh Khau Kiêng cũng đông cứng. Nhưng có một thứ vẫn luôn luôn nóng hổi và tràn đầy sức sống trước thiên nhiên khắc nghiệt, đó là trái tim và tâm hồn của các chiến sĩ thông tin trên trạm T2. Họ đang làm cho những cánh sóng tỏa vào không gian, để niềm vui, niềm hạnh phúc nơi đỉnh trời này chảy mãi…
Trước Tết Nhâm Thìn vài ngày, Thiếu úy Nguyễn Văn Hưng - Trạm trưởng Trạm T2 về Thái Nguyên đưa vợ con lên vui xuân với đồng đội ở dãy Khau Kiêng. Khi anh vừa chở vợ con đến xã Vũ Sơn (Bắc Sơn - Lạng Sơn), thì nhận được thông báo của cấp trên cho nghỉ tranh thủ một tuần. Yến - vợ của Hưng nghe thấy vậy nói với chồng: “Mình cứ về trạm gói bánh chưng, trang trí Tết cùng anh em và thăm bà ngoại rồi về Thái Nguyên cũng không muộn anh ạ”. Thế là họ tiếp tục hành trình về thôn Nà Danh, nơi ghi đậm những kỷ niệm không bao giờ quên về mối tình lãng mạn của hai người, nơi mà các chiến sĩ Trạm T2, thuộc Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thông tin 601 - Quân khu 1) ngày đêm bám trụ để bảo đảm thông tin liên lạc cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và các vùng lân cận.
 |
| Tăng gia sản xuất trên đỉnh Khau Kiêng. |
Cũng như những ngày Tết Tân Mão 2011, năm nay mưa phùn, gió bấc và giá rét liên tục tràn qua dãy núi Khau Kiêng. Anh em trực trên đỉnh núi mà cứ ngỡ đang phải ngồi trong một khối băng tuyết khổng lồ. Bước ra ngoài cửa trạm, hai người đứng gần nhau có 4, 5 mét mà chẳng thấy rõ mặt nhau. Có đêm cái rét hạ xuống chỉ còn 0 độ C, gió thổi vật vã làm các chiến sĩ cảm thấy như thân thể của mình sắp sửa bị đông cứng. Cũng may, trước Tết chỉ huy Trung đoàn lên thăm và tặng quà đã cấp thêm cho trạm 8 lõi chăn bông nữa, nên anh em trực mỗi người được 3 chiếc để chống chọi với cái rét như cắt da, cắt thịt này. Nhiều ngày, chiến sĩ ta bước ra khỏi trạm hy vọng được nhìn thấy một tia nắng xuân. Nhưng nắng đâu chẳng thấy, xung quanh toàn sương mù, mưa rơi và những đợt gió lạnh buốt… Chiến sĩ ta phải đợi thay trực để xuống núi mới tắm giặt được. Mỗi lần chuẩn bị cho bữa ăn trên đỉnh Khau Kiêng, anh em phải chảy nước mắt, nước mũi với khói bếp.
Những ngày Tết Nhâm Thìn, thỉnh thoảng tôi lại gọi điện hỏi thăm hỏi anh em ở Trạm T2. Trung úy Hoàng Hữu Phong, Chính trị viên phó Đại đội 1 vui mừng nói: “Trước Tết Nguyên đán, anh em đã quét vôi toàn bộ khu nhà nghỉ dưới chân núi, treo hai bảng khẩu hiệu lớn ở trước cửa để cổ vũ tinh thần bộ đội. Năm nay trạm gói được 10 cái bánh chưng. Cô giáo Vân và các em học sinh ở Trường THCS Vũ Sơn cũng đến gói bánh và trang trí Tết cùng anh em”. Chiến sĩ Dương Văn Quý, quê ở huyện Phú Bình (Thái Nguyên) còn khoe: “Chúng em được đón nhiều đoàn đại biểu của xã, của đơn vị kết nghĩa lên tận đỉnh núi chúc Tết và tặng quà đấy”. Nhắc đến chuyện lên đỉnh Khau Kiêng, lòng tôi lại rạo rực một cảm xúc bâng khâng, vời vợi...
Cuối năm 2011, tôi được chỉ huy Trung đoàn 601 và Tiểu đoàn 1 đưa lên đỉnh Khau Kiêng. Trước khi leo núi, Thiếu tá Nông Văn Lục, Phó chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 601 giới thiệu: “Trạm T2 là "cánh sóng trên đỉnh sương" của chúng tôi đấy”. “Cánh sóng trên đỉnh sương” nghe mới thật ấn tượng làm sao. Chỉ năm chữ ấy thôi, đã thể hiện quá sống động cuộc sống gian nan, vất vả nhưng rất đỗi tự hào của các chiến sĩ thông tin Quân khu 1. Chao ơi, hành trình trên quãng đường dài hơn 2,3km với ba con dốc mà chúng tôi phải vượt qua, mới thấy hết được bao nỗi nhọc nhằn mà các chiến sĩ đã, đang và sẽ phải tiếp tục vượt qua. Nếu như con dốc “Mèo cào” đầu tiên có vách đất đá dựng đứng như bức tường thành, thì dốc “Tắc thở” lại vừa dài, vừa trơn tuồn tuột. Đi qua hai con dốc này, tất cả sức lực, cơ bắp của con người phải được huy động tối đa. Đôi bàn tay lúc nào cũng phải bám chặt vào cây rừng, vào đất đá, để cùng đôi chân găm chặt vào thành núi, phối hợp với các loại lực khác của cơ thể đưa con người lên cao. Khi các chiến sĩ thông tin Trạm T2 leo dốc, vượt đèo lên đến đỉnh chỉ mất hơn một giờ đồng hồ, thì tôi lại phải trải qua hơn hai giờ vật lộn vô cùng vất vả. Qua chỗ dốc dựng đứng, hơi thở của tôi tưởng chừng sắp đứt đoạn, mắt mờ đi. Mọi cử động đều đờ đẫn, khắc khoải, hổn hển..., đến cả chiếc máy ảnh nhỏ cũng cảm giác như nó nặng cả chục cân. Những lúc ấy, tiếng của Thiếu tá Dương Thanh Lịch, Chính trị viên Tiểu đoàn 1 lại cất lên: “Chỉ còn một quãng ngắn nữa là đến nơi thôi. Mọi người cố gắng lên”. Câu nói ấy cũng giúp chúng tôi vượt qua con dốc thứ 3, để nhìn thấy đài thông tin xinh xắn như một nụ hoa nở trên đỉnh núi. Một cảm giác vui sướng vỡ òa làm tôi cảm thấy như mình vừa đến được một bến bờ vô cùng hạnh phúc. Con dốc này được các chiến sĩ đặt cho cái tên da diết: “Mẹ ơi!”. Mẹ ơi! Chúng con đã chinh phục được đỉnh Khau Kiêng cao 1.107m rồi…
 |
| Các chiến sĩ trạm thông tin T2 trong ca lên máy. |
Trực trên đài lúc đó là hai chiến sĩ: Binh nhất Dương Văn Quý và binh nhất Dương Đình Đông quê ở TP Lạng Sơn. Tết này họ bước vào tuổi 22, độ tuổi mà bộ đội vẫn nói vui là “Cây non của núi”. Mới đến công tác ở trạm tròn một năm, nhưng Quý đã nhớ từng khúc co, từng gốc cây, phiến đá trên con đường mòn lên núi. Anh nói: “Cứ 5 ngày, trùng với phiên chợ huyện chúng em lại thay phiên trực trên đài. Anh em lên thay trực phải đi mua thực phẩm, gạo, gia vị dùng cho 5 ngày và gùi lên đài. Hai ngày đầu được ăn đồ tươi, còn những ngày sau toàn ăn cá khô, trứng và lạc, vừng do không có tủ lạnh bảo quản”. Quý thích nhất là được ngắm bình minh trên đỉnh Khau Kiêng. Sáng sớm, khi mọi vật vẫn chìm trong lớp sương mù trắng xóa, mặt trời như cục than hồng ở phía Đông dần dần hiện lên. Khi những tia nắng đầu tiên rơi xuống đỉnh núi, không gian cũng từ từ mở ra trùng trùng, điệp điệp như huyền thoại. Còn Dương Đình Đông lại thích ngắm trăng và ưỡn ngực đón gió núi những đêm hè. Anh bảo: “Trăng trên non cao trong như ngọc. Nó mang đến cho người lính thật nhiều khát vọng và niềm tin”. Ở nơi mà mùa đông hay mùa hè mỗi tối ngủ đều phải đắp chăn bông, những ngày đông thì hai chiến sĩ ôm nhau ngủ với 5 - 6 chiếc chăn trải và quấn lên người. Ở nơi mà con người chỉ có thể làm bạn với mây mưa, nắng gió và cỏ cây. Ở nơi mà bữa ăn đạm bạc như chính cuộc sống của mình, mà chiến sĩ ta vẫn yêu đời và tự tin đến khâm phục.
Trạm trưởng Nguyễn Văn Hưng đã đón một mùa xuân trên đỉnh Khau Kiêng. Anh nói Tết ở đây ấn tượng hơn bất cứ cái Tết nào mình đã trải qua. Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày 27, 28 âm lịch là các thầy cô giáo, các em học sinh của trường Tiểu học và THCS xã Vũ Sơn lại mang hoa đào, tranh ảnh đến trang trí phòng vui xuân, đón Tết cho trạm. Họ cùng bộ đội gói bánh chưng, mổ gà, nấu thịt đông cho những bữa ăn ngày xuân. Nhiều người còn hăm hở xuyên màn sương, vạch mây lên tận đài thông tin trên đỉnh núi để trang trí phòng đón Giao thừa cho các chiến sĩ. Còn nhớ năm 2008, băng tuyết dày đặc, đóng cứng trên các lối đi lên đài và làm đổ nhiều cây cối. Chính quyền đã phải huy động một lực lượng lớn, trong đó có nhiều thầy cô giáo và học sinh địa phương đến giúp bộ đội dọn cây, đập tuyết để mở đường lên đỉnh núi.
Những ngày Tết vừa qua, Trạm T2 luôn duy trì 3 chiến sĩ trực trên đài. Mọi người đã chuẩn bị lương thực cho hơn 10 ngày ăn, vì ngày mồng 7 tháng Giêng mới có phiên chợ. Trong đêm Giao thừa, chỉ có ít cán bộ, chiến sĩ dưới chân núi, nhưng anh em vẫn tổ chức thi hát, bình thơ, thi cắm hoa, hái hoa dân chủ, đọc thư nhà, kể chuyện về bạn bè, người yêu và tỏa đi chúc Tết bà con trong thôn Nà Danh. Một điều đáng mừng là trong giá rét, sương dày, gió mạnh, những cây rau dưới chân núi hay trên đỉnh núi do các chiến sĩ trồng, vẫn tràn đầy sức sống. Bốn luống xu hào, một vạt cải đắng, súp lơ và vườn rau cải cúc trên đỉnh đã giúp những bữa ăn ngày Tết của bộ đội thêm tươi hơn.
Tôi hình dung chắc thời gian này ở hai bên triền dốc, những cành đào rừng vẫn nở hoa rực rỡ, mang đầy sắc xuân về cho núi đồi và cho người chiến sĩ. Ở giữa TP Hồ Chí Minh hoa lệ, tôi như vẫn nhớ lời của các chiến sĩ Lý Văn Long, Lý Văn Tân hay Dương Văn Quý, Dương Đình Đông nhắn gửi trong buổi chia tay: “Mùa xuân trên đỉnh Khau Kiêng hấp dẫn lắm. Xin anh đừng quên cánh sóng trên đỉnh mù sương”.
Hà Nội – TP Hồ Chí Minh, Xuân Nhâm Thìn 2012
Bài và ảnh: Phú Hưng