QĐND - 40 năm, thời gian như nước chảy với bộn bề việc chung việc riêng, những chuyến đi kế tiếp, đan xen nhau, vậy mà tôi không ngờ nỗi vấn vương, tiếng gọi của những đồng đội ngày đầu nhập ngũ, nỗi nhớ những chiếc áo yếm chiến sĩ Hải quân có những vạch dài xanh màu nước biển lại ám ảnh, da diết mình đến thế.

Năm 1972 ấy, mọi giảng đường đại học đều xao động chưa từng có. Ngày 16 tháng 4, không quân Mỹ bất ngờ đánh bom hủy diệt ở Hải Phòng, Gia Lâm (Hà Nội). Phía Nam, Quảng Trị, Tây Nguyên… đỏ lửa khốc liệt. Chỉ trong vài ngày, hàng ngàn sinh viên trở thành chiến sĩ. Chúng tôi chỉ là một phần nhỏ trong số đó, cùng nhập vào đội ngũ của một tiểu đoàn của Sư đoàn 338. Rồi số chiến sĩ mới của tiểu đoàn chia đôi, một nửa về Quân chủng Hải quân, một nửa về Quân chủng Phòng không-Không quân. Lúc ấy nghe nói các quân chủng cần chiến sĩ có trình độ văn hóa nhất định để về các đơn vị kỹ thuật. Biết vậy, nhưng là chiến sĩ kiểu gì thì cũng cần sức khỏe, sức chịu đựng trước hết. Vậy mà mới hành quân bộ mươi cây số chân đã mỏi dừ, bàn chân xước tấy vì dép cao su mới; đeo chiếc ba lô con cóc chỉ vài bộ quần áo đã sưng đỏ vai. Buổi tập đêm đeo sọt rèn hành quân xuyên rừng, anh nào anh nấy tỏ vẻ hiểu biết lắm, nào là nhìn sao trời đoán hướng, nào là lấy thanh gỗ mục có lân tinh làm ánh sáng soi đường… Vậy mà chẳng ai bảo ai, nhiều anh len lén vứt bớt từng cục đá khỏi sọt cho đỡ nặng. Mang tiếng là lính Hải quân vậy mà có lắm chàng tập cả tuần cũng chả biết bơi, cứ loanh quanh trên bãi cát hay vầy nước ven bờ. Đã thế, có những buổi hành quân di chuyển hay làm nhiệm vụ lại cứ có mấy cô gái trong xóm lẵng nhẵng bám theo, trông thật "yếu lính". Lại còn cái bệnh hay tranh luận, cái gì cũng kể lể, phân tích căn nguyên khoa học, đông tây kim cổ, trên trời, dưới biển. Ờ thì sinh viên, có một số đã hoàn thành chương trình đại học, thuộc đủ các khoa Toán, Lý, Hóa, Văn, Sử, Địa của Đại học Tổng hợp (Đại học Quốc gia hiện nay), đủ các khoa của Đại học Kinh tế kế hoạch (Đại học Kinh tế quốc dân), rồi Đại học Mỹ thuật, Đại học Hàng hải. Tranh luận với nhau thật vui, thật thích nhưng trong lúc tập hợp, trong cuộc họp lại cứ lắm ý kiến, lại hay hỏi nhiều các cán bộ trung đội, đại đội, thuyền trưởng, chính trị viên, những người đã có chiến tích ở chiến trường nhưng chưa học hết phổ thông. Được cái, các thủ trưởng cũng lắm cách xử lý. Một trong số đó là mở cuộc ca hát tự chọn, tự diễn. Tiếng hát nối nhau, chen nhau, những giọng ca, những bài hát cả tiếng Việt, tiếng Nga, tiếng Anh, Trung Quốc. Mà tự dưng, kho bài hát về biển, về Hải quân vốn có sao nhiều thế. "Dạt dào biển mênh mông…" nối tiếp "Jingle Bell", "Hắc Hải của tôi" kéo theo "Chiều hải cảng", "Lửa đèn" của Nga gọi theo "Ngọn đèn đứng gác" của Việt Nam… Rồi đến "Hãy sẵn sàng thế chỗ".

Cựu chiến binh sinh viên Hải quân gặp mặt nhân Ngày truyền thống Hải quân Việt Nam. Ảnh tư liệu.

Tôi cũng như mọi anh em đều thật thích bài hát Nga này do Nguyễn Đức Hiển, dân "Địa mạo biển" hát bằng tiếng Nga. Bài hát có mấy câu thế này: Nếu mọi niềm vui, nỗi buồn đều là của chung. Tất cả chúng ta đều là một. Biển trào lên những đợt sóng như những tấm lưng trần kế tiếp nhau… Thì bạn hỡi, chúng ta sẵn sàng thế chỗ nhau trên con tàu này… Nếu tất cả đều mến yêu một cô gái… thì chúng ta cũng sẵn sàng nhường nhau… Nếu… Chúng ta sẵn sàng nhường nhau, thay thế nhau trên con tàu cũng như trong cuộc sống…

*

*   *

Thế rồi, vừa tập bơi, bắn, võ… chúng tôi vừa đi gánh đất đắp đê giúp dân. Chỉ một tuần, đôi vai đã dày chai. Chúng tôi đi đào đắp làm hầm phòng thủ cho tiểu đoàn, làm hầm cho Viện Quân y Quân chủng. Cũng chỉ vài đợt, tay cầm cuốc xẻng, dao xây đã quen. Ra đảo Cát Hải làm hầm, chúng tôi bùi ngùi thắp hương trên khu mộ mới bảy chiến sĩ cùng một con tàu bị trúng tên lửa từ máy bay Mỹ. Dãy mộ nằm thẳng một hàng bên bờ cát.

Thế rồi, chúng tôi được chia nhau phối thuộc cùng các con tàu đi phá bom từ trường của Mỹ thả dày đặc trên cửa biển Nam Triệu phong tỏa Cảng Hải Phòng. Có nhóm theo tàu phóng từ. Nhóm chúng tôi đánh mìn kích nổ. Hải, Siêu, Quân, Tuấn, Hiển, Nam, Bình… Những cánh tay thư sinh bây giờ đã khác, cầm chiếc búa nặng hơn một cân giáng thẳng xuống kíp nổ to gần bằng phích nước gắn trên thùng phuy thuốc nổ. Sau tiếng đập mạnh là hè nhau đẩy thùng thuốc nổ qua mạn tàu xuống nước trong khi con tàu phóng hết tốc lực về phía trước. Ngoảnh lại, những tiếng ùng ục dưới biển và cột nước bốc cao. Bom mìn Mỹ đã bị phá…

Thế rồi, 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972, chúng tôi cũng được tham gia trận chiến bảo vệ tàu, bảo vệ Cảng. Từ các trận địa pháo cao xạ ở gần nhà máy điện, nhà máy chai, từ các trận địa tên lửa ở gần Bến Bính và xung quanh Hải Phòng, các bạn sinh viên-chiến sĩ của chúng tôi đã cùng đồng đội phóng những đường đạn bắn hạ B52 Mỹ. Trên các con tàu Hải quân, các cỡ súng 14 ly 5, 12 ly 7, 37 ly cũng nổ đỏ nòng nhằm vào lũ máy bay chiến thuật bay thấp…

Sau khi cùng anh em thủy thủ kiền ghép con tàu 533 của mình với các con tàu khác ven sông Cấm để phòng ngừa một cơn bão lớn sắp đổ bộ vào Hải Phòng, tôi khoác ba lô lên tàu về Hà Nội nhận nhiệm vụ ở Báo Quân đội nhân dân. Xa tàu, xa đồng đội, sao không nhớ, nhất là những bạn bè sinh viên ở đoàn tàu không số - Trung đoàn 125, Đoàn Đặc công nước 126, Đoàn tàu phóng lôi, tên lửa 172. Đó là những đơn vị phải giữ bí mật cao độ. Nhờ vậy nên hễ có dịp gặp một con tàu, con thuyền ở bến sông bến cảng nào là tôi đều xin được xuống thăm. Leo qua cầu tàu, đi đi lại lại một chút mặt boong, ngắm nghía khoang buồm dây, khoang bếp, nằm lại chiếc giường tầng nhỏ xíu có cửa sổ mạn nhìn ra sông biển… Và hít thở mùi dầu máy quen quen…

*

*   *

Một nhóm sinh viên Đại học Kinh tế Kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế Quốc dân) là chiến sĩ Hải quân năm 1972. Ảnh tư liệu

"Người đánh cá nhìn thấy người đánh cá đầu tiên" - câu ngạn ngữ Nga lũ lính sinh viên - chiến sĩ Hải quân chúng tôi hay nói với nhau sao nghiệm thế. Mùa xuân năm 1975, trên đường vào mặt trận phía Nam, thoáng qua Cửa Việt, Quảng Trị, thấy tàu quen, tôi biết thế nào cũng có bạn tôi ở các Đoàn 171, 125 chở xe tăng vào đây. Sau này có dịp hỏi lại quả đúng vậy. Buổi sáng ngày 30-4, là phóng viên đi cùng Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 đang cùng Lữ đoàn xe tăng 203 tiến vào Sài Gòn, tôi đã phải dừng lại khá lâu bên cầu Rạch Chiếc. Quân địch ở đây chống trả quyết liệt quá, anh em các đơn vị đặc công đã phải đánh đi đánh lại giữ cầu 3 ngày đêm liền để cho đại quân thần tốc hành tiến. Trong một đơn vị đặc công ấy có bạn sinh viên của tôi từng cùng huấn luyện Trung đoàn đặc công nước 126. Sau ngày Sài Gòn giải phóng, tôi ra Vũng Tàu, rồi theo tàu Hải quân ra đón anh em tù chính trị ở Côn Đảo. Lại được gặp những con tàu, những gương mặt quen thân của Đoàn 125, 171. Rồi nữa là những con tàu, những bè bạn ra giải phóng Trường Sa, những thuyền trưởng, thủy thủ trên những con tàu Hải quân - Quân tình nguyện Việt Nam trên các vùng biển, hải cảng Cam-pu-chia. Lại có cả người chiến sĩ Hải quân trên chiến hào biên giới phía Bắc năm 1979…

Cái đích của chiến tranh là hòa bình, dựng xây. Cái đích của sinh viên là cống hiến bằng nghề nghiệp mình được học hành, nghiên cứu. Sau chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam, trừ một số sinh viên đã tốt nghiệp chúng tôi được phân công công tác trong quân đội hoặc chuyển ngành, phần lớn sinh viên - chiến sĩ Hải quân đều đã trở lại các giảng đường đại học. Có số vào học ở các trường quân đội, trong đó có Học viện Hải quân. Cái đích hòa bình, học hành và cống hiến của mọi người đều đã đạt. Chỉ chưa đến 200 sinh viên - chiến sĩ thuở ấy, nhưng hầu như mỗi người mỗi thành công ở những cương vị khác nhau. Có người là thuyền trưởng chịu sóng giỏi nhất Vùng 5 Hải quân. Có các anh binh nhì năm ấy đã là đại tá, phó giáo sư, phó giám đốc và chuẩn đô đốc, giáo sư, giám đốc Học viện Hải quân. Có nhiều người là đại tá, thượng tá công tác ở Bộ tư lệnh Hải quân, ở các cơ quan Bộ Quốc phòng. Có giáo sư viện trưởng Viện nghiên cứu Xã hội học, có nhiều phó giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu, giảng dạy Toán học, Sử học, Địa lý, Địa chất, Triết học, Kinh tế…, nhiều giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà kỹ thuật, nghệ sĩ, luật sư, nhiều cán bộ, công chức uy tín công tác trong các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương… Riêng trong nhóm tốt nghiệp khoa Sử chúng tôi, chàng chuẩn úy Hải quân chuyển ngành, nhà khảo cổ học trẻ Nguyễn Việt đã khởi sự và chủ biên một công trình nghiên cứu khá công phu về lịch sử thủy quân Việt Nam. Năm 1983, cuốn sách “Quân thủy Việt Nam trong lịch sử” đã ra mắt. Năm 2012 này, cuốn sách sẽ được bổ sung, tái bản…

Chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong hàng ngàn, hàng vạn sinh viên ra trận, chúng tôi cũng chẳng phải lập nên chiến tích, công trạng gì nhưng điểm lại tất cả đều đã được vinh dự góp chút lửa đời mình vào sự nghiệp chung, cả trong kháng chiến và xây dựng, bảo vệ hòa bình.

Ngày mai, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh và ngôi nhà sàn của Người, chúng tôi sẽ lại cùng nhau đội lại chiếc mũ Hải quân Việt Nam, mặc lại chiếc áo yếm chiến sĩ có những vạch vải xanh nước biển, sẽ cùng ngắm lại đôi quân hàm binh nhì, binh nhất có mỏ neo ở giữa. Cái mỏ neo binh nhì binh nhất ấy đã khởi đầu cho những cuộc đời, mà theo thời gian cũng mãi neo giữ tất cả chúng tôi với Hải quân, với biển xanh Tổ quốc.

Bút ký của Mạnh Hùng